Đối tác - Liên kết

Sổ tay du lịch lữ hành

Thảo luận trong '5. Tư vấn - Hỏi đáp - Chia sẻ Kinh nghiệm du lịch' bắt đầu bởi NhokLinh, 18/7/08.

  1. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    19. Thực phẩm

    Sau nước, thực phẩm là một nhu cầu tối cần thiết của con người, nếu thiếu thực phẩm, chúng ta sẽ suy kiệt sinh lực và sức chịu đựng, tinh thần hoang mang mơ hồ, không còn ý chí, nghị lực để phấn đấu… sinh mạng sẽ bị đe doạ.
    Nhưng để tìm kiếm được thực phẩm từ thiên nhiên hoang dã, các bạn phải là người có kinh nghiệm. Tuy thiên nhiên thật hào phóng, nhưng cũng rất khắc nghiệt. Bên cạnh những thực vật, động vật có thể nuôi sống được con người, thì cũng có những cây trái và sinh vật có thể giết chết con người trong nháy mắt. Đã vậy, sự khác biệt giữa “lành” và “độc”, lại không sai biệt nhau là bao nhiêu, nhất là ở trong các loài thực vật. Thí dụ: Cây “Chè vằng” ăn được lại rất giống cây “Lá ngón” cực độc, chỉ cần ăn vài lá là vô phương cứu chữa. Hoặc giữa cây khoai môn và cây môn nước, một loại thì ăn rất ngon, còn một loại ăn vào thì ngứa như cào cổ. Những cây nầy, chỉ có người kinh nghiệm mới phân biệt được.

    Nói như thế không có nghĩa là bạn khoanh tay nhịn đói chờ chết, chúng tôi chỉ muốn nói là các bạn hãy thận trọng, nên ăn những gì mà các bạn biết rõ, cả về tính chất lẫn cách chế biến (chẳng hạn như củ nần, củ nâu, thì phải ngâm nước và luộc nhiều lần. Củ nưa phỉa luộc với vôi. Măng tre thì phải luộc hay nấu, không thể nướng hay ăn sống được…)
    Về động vật, tuy ít có con mang chất độc trong thịt, nhưng nếu các bạn không biết cách làm và chế biến, thì cũng có thể trúng độc. Nhiều người đã chết do ăn Cóc và cá Nóc làm không kỹ. Các bạn không nên ăn những lòng, ruột, trứng.. của các loại cá và động vật mình không biết rõ, và cũng đừng **ng tới những sinh vật và côn trùng hay nấm có màu sắc sặc sỡ, vì đó là lời cảnh cáo của thiên nhiên.
    Để tìm thực phẩm từ trong thiên nhiên, chúng ta có 2 nguồn chính: từ THỰC VẬT và từ ĐỘNG VẬT.

    THỰC PHẨM TỪ THỰC VẬT.

    Đây là một nguồn thực phẩm phong phú và đa dạng, dễ tìm kiếm, rất thích hợp cho những trường hợp phải di chuyển. Tuy nhiên, cũng rất dễ bị ngộ độc, các bạn phải cẩn thận.
    Thường thì cây, trái, củ, hạt, mầm… nào mà chim, thú (nhất là khỉ) mà ăn được thì chúng ta cũng có thể ăn được. Nhưng đó không phải là công thức, vì một số loài chim có thể ăn những trái độc (Mã tiền, Mặt quỷ…) mà nếu các bạn ăn vô thì chắc chắn “ngủm”.
    Nếu nghi ngờ thì các bạn có thể thử bằng những cách sau đây:
    - Ngắt một đọt cây, cuống lá, mà thấy nhựa trắng như sữa thì đừng ăn.
    - Nhai thử, thấy có vị đắng, cay, hay buồn nôn, thì đừng ăn.
    - Nấu lên trong 15 – 20 phút, bỏ vào miệng ngậm một lúc, nếu thấy không có phản ứng gì thì từ từ ăn thêm, nhưng đừng quá nhiều, cho đến khi hoàn toàn tin tưởng.
    Trong sự hạn chế của một chương sách cũng như về khả năng, chúng tôi không thể trình bày được hết tất cả các loại cây trái có thể dùng làm thực phẩm. Chúng tôi cũng không đề cập đến các loại cây đã được thuần hoá từ lâu và được trồng khắp nơi như: lúa, bắp, đậu, mè… khoai lang, khoai tây, khoai mì… cam, quýt, xoài, ổi, mít, mận… mà chúng tôi thiên về những cây mọc hoang, hoặc đang được thuần hoá. Nhất là ở Việt Nam và các nước lân cận.


    NHỮNG CÂY HOANG DÃ DÙNG LÀM THỰC PHẨM

    KHOAI MÀI – HOÀI SƠN – SƠN DƯỢC

    Nơi mọc: Ở khắp vùng rừng núi nước ta.
    Thân cây: Dây leo bò trên mặt đất
    Lá: Lá đơn, hình tim, mọc đối hay so le
    Hoa: Hoa đực, hoa cái khác gốc
    Quả: Củ con ở nách lá gọi là “thiên hoài” hay “dái củ mài”
    Phần làm thực phẩm: Củ (có thể dài 1 mét)
    Chế biến: Luộc hay nạo, giã để nấu canh
    Mùi vị: Thơm, bùi.
    SẮN DÂY – CÁT CĂN – CAM CÁT CĂN

    Nơi mọc: Mọc hoang và được trồng khắp nơi
    Lá: Lá kép gồm 3 lá chét hình trứng
    Hoa: Màu xanh, mọc thành chùm ở kẽ lá
    Quả: Dài 9 – 10 cm, vàng nhạt, nhiều lông
    Phần làm thực phẩm: Củ
    Chế biến: Luộc, chế thành bột
    Mùi vị: Bùi, ngọt

    HOÀNG TINH – CỦ CÂY CƠM NẾP

    Nơi mọc: Mọc hoang ở những nơi rừng ẩm
    Thân cây: Cây loại cỏ sống lâu năm
    Lá: Hình mác, mọc vòng 4 – 5 lá một
    Hoa: Mọc ở kẽ lá, rũ xuống, mỗi cuống mang 2 hoa hình ống, màu tím đỏ.
    Quả: Quả mọng, khi chín có màu tím đen
    Phần làm thực phẩm: Củ
    Chế biến: Luộc hay giã làm bột

    KHOAI NƯA – KHOAI NA

    Nơi mọc: Mọc hoang ở những nơi ẩm ướt
    Thân cây: Cây sống lâu năm
    Lá: Lá đơn, có cuống dài, màu xanh lục nâu, có đốm trắng, phiến lá khía nhiều và sâu
    Hoa: Bông mo tận cùng bằng một phần bất thụ, hình trụ, màu tím (mo màu nâu sẩm)
    Phần làm thực phẩm: Củ
    Chế biến: Luộc với vôi cho hết ngứa

    CỦ NÂU – KHOAI LENG

    Nơi mọc: Mọc hoang tại các vùng rừng núi
    Thân cây: Dây leo thân nhẵn, gốc nhiều gai
    Lá: Hình trứng hơi mác, mọc cách ở gốc, mọc đối ở ngọn
    Hoa: Mọc thành bông
    Phần làm thực phẩm: Củ
    Chế biến: Luộc nhiều nước.

    KHOAI MÔN – KHOAI SỌ

    Lá: Hình tim, có cuống dài, không ướt
    Hoa: Bông màu trắng, hoa bất thụ vàng
    Phần làm thực phẩm: Thân hoá củ
    Chế biến: Luộc

    CỦ CHUỐI – CHUỐI HOA

    Nơi mọc: Mọc hoang, trồng làm cảnh, thích nơi ẩm.
    Thân cây: Thân thảo, đa niên, cao khoảng 1m50.
    Lá: To, tròn hơi mác, mọc cách, màu lục, trơn láng
    Hoa: Xếp thành chùm, có một cái mo chung
    Quả: Quả nang có nhiều gai mềm như lông
    Phần làm thực phẩm: Củ
    Chế biến: Luộc – giã làm bột

    CỦ NĂN – MÃ THẦY

    Nơi mọc: Mọc hoang và được trồng ở nơi ngập nước.
    Cây cỏ củ to, mọc ở dưới nước. Thân không có lá, tròn dài, gần như chia đốt, phía trong có nhiều vách ngang. Hoa tự chỉ gồm có một bông nhỏ màu vàng nâu ở ngọn, hoặc không có hoa.
    Phần làm thực phẩm: Củ
    Chế biến: Ăn sống, nấu với thịt, nấu chè

    CỦ ẤU - ẤU NƯỚC – KỴ THỰC

    Nơi mọc: Mọc hoang và được trồng ở các ao đầm
    Thân cây: Thân ngắn, có lông
    Lá: Lá nổi có phao: ở cuống, hình quả trám
    Hoa: Hoa trắng, mọc đơn độc hay ở kẽ lá
    Quả: Thường gọi là “củ”, có hai sừng
    Phần làm thực phẩm: Quả (củ)
    Chế biến: Luộc hay giã bột làm bánh.

    TRẠCH TẢ - MÃ ĐỀ NƯỚC

    Nơi mọc: Mọc hoang ở ao, đầm, ruộng nước
    Thân cây: Thân rễ trắng, hình cầu hay hình con quay
    Lá: Hình thuôn hay hình tim, có cuống dài
    Hoa: Màu trắng, cuống dài, thành tán
    Quả: Là một đa bế quả
    Phần làm thực phẩm: Thân củ
    Chế biến: Luộc

    SƠN VÉ

    Nơi mọc: Mọc hoang từ Quảng Trị đến Nam Bộ
    Thân: Đại mộc, cao 20m, nhánh non hình vuông
    Lá: Xoan thon, chót nhọn, gân phụ mảnh
    Hoa: Đơn tính màu đồng chu
    Trái: Tròn nhỏ, màu vàng lục có hột to 6 – 8 mm
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không

    TRÔM – TRÔM HOE

    Nơi mọc: Mọc hoang và thường được trồng để làm nọc tiêu hay trụ hàng rào (rất dễ trồng)
    Thân: Đại mộc cao 6 – 9 mét
    Lá: Lá kép gồm 7 – 9 lá phụ không cuống, có lông hoe ở mặt dưới
    Phần sử dụng: Nhựa cây tươi hay phơi khô
    Chế biến: Ngâm nước cho nở ra và ăn như thạch.

    BÁT

    Nơi mọc: Mọc hoang (hay trồng) theo lùm bụi
    Thân: Dây leo đa niên có vòi cuốn
    Lá: Hơi dầy, không lông
    Hoa: Màu trắng, năm cánh, hơi giống hoa bìm bìm
    Trái: Khi non màu anh vân trắng, khi chín màu đỏ
    Phần sử dụng: Trái và lá
    Chế biến: Ăn tươi, luộc hay nấu canh.

    CHÙM NGÂY

    Nơi mọc: Mọc hoang và được trồng ở Nam bộ
    Thân: Thân mọc cao từ 4 – 9 mét có nhánh to.
    Lá: Kép 3 lần, màu xanh mốc, không lông
    Hoa: Màu trắng, to, hình giống như hoa đậu
    Trái: To dài đến 55cm, khô nở thành 3 mảnh
    Phần sử dụng: Trái, lá và hột
    Chế biến: Lá, trái non xào nấu như rau, hột ép dầu

    GAN TIÊN THƠM – CHÂU THI

    Nơi mọc: Mọc hoang ở các vùng núi cao Bắc Bộ
    Thân: Tiểu mộc, cao 3m, nhánh nằm, không lông
    Lá: Phiến hình bầu dục, thon, không lông
    Hoa: Chùm ở nách lá, màu trắng
    Trái: Nang tròn, chứa nhiều hột
    Phần sử dụng: Trái

    GĂNG NÉO

    Nơi mọc: Mọc hoang ở các rừng còi duyên hải, có trồng nhiều ở Côn Sơn.
    Thân: Đại mộc, nhánh ngắn, vòng đều quanh thân
    Lá: Phiến dài bầu dục, không lông
    Hoa: Chùm hoa màu trắng
    Trái: Phì quả to 1,5cm, cơm vàng, hột dẹp láng
    Phần sử dụng: Trái

    SẾN MẬT

    Nơi mọc: Mọc hoang ở Bắc bộ và được trồng ở Nam bộ, dọc theo sông Cửu Long
    Thân: Đại mộc, cao khoảng 20m
    Lá: Phiền bầu dục, mặt dưới có gân lồi, lông nhung
    Hoa: Chùm ở nách
    Trái: Phì quả cao 3cm, có từ 1 – 3 hột
    Phần sử dụng: Trái

    DUNG CHÙM

    Nơi mọc: Mọc hoang từ cao độ 1000 – 2000 mét.
    Thân: Đại mộc nhỏ, cao khoảng 8m, vỏ nứt sâu
    Lá: To, phiến xoan bầu dục, mặt trên xanh đậm
    Hoa: Chùm đơn, màu trắng hay vàng, thơm
    Trái: Hình thoi, dài khoảng 1cm, không lông
    Phần sử dụng: Trái và lá
    Chế biến: Lá nấu uống như trà, trái ăn tươi

    XAY

    Nơi mọc: Khắp núi rừng từ Trung đến Nam bộ
    Thân: Tiểu mộc, cao khoảng 5m, nhánh non có lông
    Lá: Hình muỗn dài, nhỏ, đầu tròn, không lông
    Hoa: Hoa nhỏ, chùm ở nách lá, không lông
    Trái: Tròn, từng chùm, khi chín màu đen mốc
    Phần sử dụng: Trái và lá
    Chế biến: Trái ăn tươi, lá nấu canh

    MÓC CỘT

    Nơi mọc: Rừng thưa ở độ cao 1000 – 2000 mét
    Thân: Đại mộc, cao 8 – 12 m, nhánh có khi có gai
    Lá: Đáy tròn, chót có mũi ngắn, rụng theo mùa.
    Hoa: Màu trắng, chùm tụ tán
    Trái: Tròn, chót có thẹo của đài
    Phần sử dụng: Trái

    DUM LÁ HƯỜNG

    Nơi mọc: Mọc hoang các vùng núi cao trên 1000m
    Thân: Bụi, có lông mịn, có gai nhỏ.
    Lá: Lá kép do lá phụ mọc đối, mép có răng cưa
    Hoa: Ở chót nhánh, cánh tròn, màu trắng, thơm
    Trái: Tròn, to 2 cm
    Phần sử dụng: Trái
    Chế biến: Lá nấu như trà, trái ăn tươi

    TU LÚI – NGẤY LÁ NHỎ

    Nơi mọc: Mọc hoang bình nguyên đến cao nguyên
    Thân: Bụi trườn, nhánh mảnh, có lông và gai cong
    Lá: Lá bẹ, lá phụ nhỏ, mặt trên không lông, mặt dưới đầy lông trắng
    Hoa: Tản phòng ở ngọn, màu hường, dài đầy lông, có gai nhỏ
    Trái: Hình bán cầu, màu đỏ, vị chua
    Phần sử dụng: Trái

    THIÊN TUẾ

    Nơi mọc: Mọc hoang và còn được trồng làm kiểng
    Thân: Cao 1 – 6 m
    Lá: Dài 0,5 – 2m, có thứ diệp từng cặp một
    Hoa: Ít khi có hoa
    Quả: Hình xoan, màu vàng hay đỏ (có độc)
    Phần làm thực phẩm: Thân cây
    Chế biến: Lấy lõi thân cây giã thành bột làm bánh hay chế biến các món khác.

    DỦ DẺ

    Nơi mọc: Mọc hoang ở rừng còi dựa biển
    Thân: Cây nhỏ, đứng hay leo, nhánh mang lông
    Lá: Phiến lá dài, mặt dưới có lông màu nâu
    Hoa: Màu vàng, 6 cánh, cô độc hay từng cặp
    Quả: Phì quả nắn, từ 5 – 7 hột
    Phần làm thực phẩm: Trái
    Chế biến: Không

    BỒ QUẢ ĐÁC – BỒ QUẢ HOE

    Nơi mọc: Rừng còi, rừng thưa (Kontum, Đacto…)
    Thân: Dây leo thẳng, có lông màu nâu hoe
    Lá: Dài 12 – 15 cm, có lông cứng vàng hoe
    Hoa: Mọc đối diện với lá, to 3 – 4 cm, có lông
    Trái: Phì quả có lông mịn, chứa 5 – 6 hột
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không

    NẤM CƠM – XƯN XE – NGŨ VỊ TỬ NAM

    Nơi mọc: Mọc hoang ở các vùng núi trung nguyên
    Thân: Dây leo rất cao, nhánh non có phấn mịn
    Lá: Hình xoan bầu dục. Mặt trên láng, nâu đen
    Hoa: Màu đỏ, cô độc, to 12 – 15 cm
    Trái: Giống như một trái mãng cầu ta nhỏ
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không

    KHOAI LANG (WILD POTATO)

    Nơi mọc: Mọc hoang ở những vùng núi Nam Mỹ
    Thân: Thẳng cao 30 – 80 cm, sống lâu năm
    Lá: Kép xẻ lông chim, lá chét to nhỏ khác nhau
    Hoa: Mọc thành sim, màu tím hay trắng
    Quả: Mọng hình cầu, xanh nhạt hay tím nhạt
    Phần làm thực phẩm: Củ
    Chế biến: Luộc hay nướng

    CỦ ***

    Nơi mọc: Mọc hoang ở những vùng ngập nước
    Thân cây: Thân rễ phát triển thành củ
    Lá: Tròn xẽ hình tim, cuống dài
    Hoa: Nhiều cánh, màu hồng tím hay trắng
    Phần làm thực phẩm: Củ và cuống hoa còn non
    Chế biến: Củ - luộc. Cuống hoa: ăn sống, xào…

    BỨA

    Nơi mọc: Mọc hoang và được trồng ở miền Bắc
    Thân: Cây gỗ cao 10 – 15 mét
    Lá: Mọc đối, mép trơn, nhẵn bóng
    Hoa: Màu vàng, hoa đực và lưỡng tính
    Quả: Mọng hình cầu, ngoài vàng, trong hơi đỏ
    Phần làm thực phẩm: Quả và lá
    Chế biến: Ăn sống hoặc nấu canh chua.

    Ô MÔI – BỒ CẠP NƯỚC

    Nơi mọc: Mọc hoang ở miền Nam nước ta
    Thân: Cây gỗ cao 7 – 15 mét
    Lá: Kép lông chim từ 5 – 16 đôi, hình thuôn
    Hoa: Mọc thành chùm, màu hồng tươi, thông
    Quả: Hình trụ cứng, dài 20 – 60 cm, màu đen nhạt
    Phần làm thực phẩm: Trái và hạt
    Chế biến: Trái ăn tươi, hạt rang hay luộc.

    MƠ – Ô MAI – HẠNH

    Nơi mọc: Mọc hoang và được trồng ở miền Bắc
    Thân: Loại cây nhỏ, cao 4 – 5 mét
    Lá: Mọc so le, bầu dục nhọn đầu, mép răng cưa
    Hoa: Năm cánh, trắng hoặc hồng, mùi thơm
    Quả: Quả hạch, hình cầu, màu vàng xanh, 1 hạt
    Phần ăn được: Quả
    Chế biến: Ăn tươi hay muối thành ô mai.

    THỊ - THỊ MUỘN

    Nơi mọc: Mọc hoang và được trồng khắp nơi
    Thân: Gỗ cao từ 5 – 10 mét
    Lá: Mọc so le, hình trứng thuôn, phủ lông
    Hoa: Đa tính, hợp thành sim, màu trắng, có lông
    Quả: Tròn hơi đẹt, khi chín màu vàng, thơm gắt
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không,

    DÂU TẰM - TẦM TANG

    Nơi mọc: Được trồng và mọc honag (do trồng rồi bỏ)
    Thân: Thường cao 2 – 3 mét, có thể cao 15 mét
    Lá: Mọc so le, hình bầu dục nhọn, mép răng cưa
    Hoa: Đơn tính, mọc thành khối hình cầu, 4 lá dài
    Trái: Trái kép, mọng nước, màu đỏ, sắc đen thẩm
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không.

    SỔ - THIỀU BIÊU

    Nơi mọc: Mọc hoang ở rừng núi, dọc bờ sông, suối
    Thân: Cây gỗ to, cao 15 – 20 mét
    Lá: To, dài, hình bầu dục nhọn, mép khía răng cưa
    Hoa: Hoa to, mọc đơn độc ở kẽ lá.
    Trái: Hình cầu, do lá đài phát triển thành bản dầy
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không.
     
  2. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    SIM – ĐƯƠNG LÊ – SƠN NHẬM

    Nơi mọc: Mọc hoang ở các đồi trọc Trung, Nam bộ
    Thân: Cây nhỏ, cao 1 – 2 mét
    Lá: Mọc đối, hình thuôn, phiến dầy, có lông mịn
    Hoa: Hồng tím, đơn độc hoặc từng chùm 3 cái
    Trái: Mọng , màu tím thẩm, hạt nhiều
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không.

    SUNG

    Nơi mọc: Mọc hoang và được trồng khắp nơi ở VN
    Thân: Cây to, phân nhánh ngang
    Lá: Hình mũi giáo, có lông khi còn non
    Hoa: Để hoa phát triển thành trái
    Trái: Trái giả, mọc thành chùm trên thân cây
    Phần ăn được: Trái và lá non
    Chế biến: Ăn sống hoặc muối, lá có thể gói nem.

    ĐÀI HÁI – MỠ LỢN – MƯỚP RỪNG

    Nơi mọc: Mọc hoang trong rừng núi
    Thân: Dây leo, thân nhẵn, có thể dài hơn 30 mét
    Lá: Hình tim, chia 3 – 5 thùy, rộng 15 – 25 cm
    Hoa: Hoa đực mọc chùm, hoa cái đơn độc
    Trái: Hình cầu, to, có 6 – 12 hạt lớn, hình trứng dẹt
    Phần ăn được: Hạt
    Chế biến: Ép dầu, nướng hay rang như đậu phộng.

    MÂM XÔI – ĐÙM ĐŨM

    Nơi mọc: Mọc hoang ở khắp núi rừng miền Bắc
    Thân: Cây vừa, thân leo, có nhiều gai nhỏ
    Lá: Lá đơn, hình tim, chia 5 thuỳ, mặt có lông
    Hoa: Hình chùm, 5 cánh, màu trắng, nhiều nhuỵ
    Trái: Kép, hình mâm xôi, khi chín màu đỏ tươi
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không.

    CHAY

    Nơi mọc: Mọc hoang và được trồng nhiều nơi
    Thân: Cây to, cao 10 – 15 mét
    Lá: Mọc so le, trên nhẵn, dưới có lông ở gân lá
    Hoa: Hoa đực, hoa cái mọc trên cùng một cây
    Trái: Khi chín màu vàng, mềm, cơm màu đỏ
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không.

    NHÓT – LÓT

    Nơi mọc: Mọc hoang, trồng ở các tỉnh miền Bắc
    Thân: Cây vừa, cành mềm, có gai
    Lá: Hình bầu dục, mọc so le, mặt dưới trắng bạc
    Hoa: Không tràng, có 4 lá dài
    Trái: Hình bầu dục, khi chín đỏ tươi, có phủ lông
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Ăn sống hoặc nấu canh.

    CHUA CHÁT

    Nơi mọc: Mọc hoang các tỉnh cực Bắc VN
    Thân: Gỗ cao 10 – 15 mét, cây non có gai
    Lá: Hình bầu dục, mép khía răng cưa
    Hoa: Họp thành tán, từ 3 – 5 hoa, cánh màu trắng
    Trái: Tròn dẹt, khi chín màu vàng lục
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không.

    TÁO MÈO

    Nơi mọc: Mọc hoang ở các tỉnh cực Bắc VN
    Thân: Cây lỡ, cao 5 – 6 mét, cây non cành có gai
    Lá: Đa dạng, non xẻ thuỳ, cây lớn bầu dục
    Hoa: Họp thành chùm 1 – 3 hoa, cánh màu trắng
    Trái: Hình cầu thuôn, khi chín màu vàng lục
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không.

    HỒNG - THỊ ĐẾ - TAI HỒNG

    Nơi mọc: Mọc hoang ở Trung Quốc, Nhật Bản; được trồng ở các tỉnh miền Bắc VN
    Thân: Cây lỡ, cao 5 – 6 mét
    Lá: Thuôn hay hình trứng, mép nguyên hay lượn sóng
    Hoa: Hoa đực mọc 2-3 cái một, hoa cái mọc đơn độc
    Trái: Hình bầu dục, khi chín màu vàng hay đỏ thắm
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Phơi khô hay ăn tươi.

    GẮM – DÂY MẪU – DÂY SÓT

    Nơi mọc: Mọc hoang tại các vùng rừng núi nước ta
    Thân: Dây leo, dài 10 – 12 mét, rất nhiều mấu
    Lá: Mọc đối, hình trứng, thuôn dài, đầu nhọn
    Hoa: Hình nón, thành chùm dài hay mọc vòng
    Trái: Hình trứng, bóng, phủ một lớp như sáp
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không

    SEN – LIÊN – QUÌ

    Nơi mọc: Được trồng và mọc hoang ở các ao đầm
    Thân: Hình trụ, mọc trong bùn, thường gọi là ngó
    Lá: Hình khiên, tròn, to, gân toả đều
    Hoa: To, màu trắng hay đỏ hồng, nhiều cánh
    Trái: Được gọi là hạt, nằm trong gương sen
    Phần ăn được: Hạt, ngó sen, cuống hoa non
    Chế biến: Ăn sống, xào nấu, muối chua, nấu chè.

    TRỨNG CUỐC

    Nơi mọc: Mọc hoang khắp rừng núi nước ta
    Thân: Cây bại, có cành vươn dài
    Lá: Mọc so le, hình mác dài, mặt trên nhẵn bóng
    Hoa: Nhỏ, màu trắng, mọc thành chùm ở kẽ lá
    Trái: Hình trứng, xám có điểm những chấm trắng
    Phần làm thực phẩm: Trái và lá
    Chế biến: Trái ăn, lá nấu uống thay trà (chè)

    DÂU RƯỢU – DÂU TIÊN – THANH MAI

    Nơi mọc: Mọc hoang ở tỉnh miền Bắc và Trung
    Thân: Cây thường cao 0,40 – 0,50 mét
    Lá: Thuôn dài, non có răng cưa rõ, già không rõ
    Hoa: Hoa cái hình đuôi sóc, hoa đực gầy, thưa hoa
    Trái: Hình cầu, gần giống trái dâu, chín màu đỏ tím
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Phơi khô, ăn tươi, ủ thành rượu.

    LƯỜI ƯƠI – BÀNG ĐẠI HẢI

    Nơi mọc: Mọc hoang ở các tỉnh miền Nam nước ta
    Thân: Cây to, cao 30 – 40 mét
    Lá: Đơn, nguyên hay xẽ thuỳ, mặt dưới nâu hay bạc
    Hoa: Hoa nhỏ, không cuống, họp thành 3 – 5 chuỳ
    Trái: Dạng lá, hình trứng, giống đèn treo
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Ngâm trái vào nước cho nở ra, cho đường vào rồi ăn như thạch.

    MUA BÀ – DÃ MẪU ĐƠN

    Nơi mọc: Khắp các bãi hoang, đồi trọc, ven rừng…
    Thân: Bụi, cao khoảng 1 mét, phủ lông
    Lá: Hình trứng nhọn, có 5 – 7 gân dọc, phủ lông
    Hoa: Lớn, mọc chụm đầu cành, màu tím hoa cà
    Trái: Hình chén, phần đầu hơi hẹp lại
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không

    XỘP – VẢY ỐC – SUNG THẰN LẰN

    Nơi mọc: Mọc hoang, được trồng làm cảnh khắp nơi
    Thân: Cây leo nhờ rễ, bám vào vách đá, đại thụ…
    Lá: Đa dạng, mép nguyên, mặt lá nhám
    Hoa: Hoa nhiều, đơn tính, đế hoa lõm
    Trái: Trái giả, hình chén kín, khi chín màu vàng, đỏ
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Không

    DẺ - KHA THỤ TÀU

    Nơi mọc: Các sườn núi cao dưới 700 mét
    Thân: Cây gỗ cao khoảng 20 mét, vỏ màu tro xám
    Lá: Dạng mũi mác, mép trên có răng cưa
    Hoa: Nhỏ, đơn tính, hoa đực trắng lục, hoa cái chứa một tổng bao xếp thành một bông ngắn
    Trái: Quả hạch, hình trứng, màu vàng nâu, có lông
    Phần ăn được: Hạt
    Chế biến: Rang ăn hay nấu với thịt

    DÂU NÚI – XÀ MỖI

    Nơi mọc: Mọc hoang theo bờ suối, nơi ẩm, rừng núi
    Thân: Cây thảo, mọc bò, sống lâu năm, rễ ngắn thô
    Lá: Kép lông chim, 3 lá chét, mép có răng cưa
    Hoa: Màu vàng, mọc đơn độc, cuống dài, nhiều lá đài
    Trái: Quả bế, nhăn nheo, bầu dục, chín màu hồng
    Phần ăn được: Trái
    Chế biến: Ăn tươi - ủ rượu- làm mứt

    KIM ANH – THÍCH LÊ TỬ - ĐƯỜNG QUÁN TỬ

    Nơi mọc: Mọc hoang ở các vùng cực Bắc nước ta
    Thân: Mọc dựa thành bụi, nhiều gai như hoa hồng
    Lá: Kép lông chim, 3 lát chét, mọc so le, răng cưa
    Hoa: Mọc riêng đầu cành, 5 cánh, màu trắng
    Trái: Hình trứng, nhiều gai, khi chín màu vàng nâu
    Phần ăn được: Trái (bỏ hạt, vì có độc)
    Chế biến: Không

    HỒ ĐÀO – ÓC CHÓ

    Nơi mọc: Mọc hoang từ Đông Nam Châu Âu tới Nhật Bản, được trồng ở các tỉnh cực Bắc nước ta
    Thân: Cây gỗ to, cao khoảng 20 mét
    Lá: Kép lông chim , có từ 7 – 9 lá chét, mùi hăng
    Hoa: Đơn tính, hoa đực hình đuôi sóc.
    Trái: Quả hạch, có vỏ nạc, chín nứt thành 3 – 4 mảnh
    Phần ăn được: Nhân hạt
    Chế biến: Ép dầu hoặc rang ăn.

    CÁC LOẠI CÂY NHƯ RAU CẢI

    THỔ CAO LY SÂM

    Còn gọi là giả nhân sâm, thổ nhân sâm. Mọc hoang và được trồng khắp nơi ở Việt Nam. Dùng lá, thân non, củ, để nấu canh.

    MỒNG TƠI

    Là một loại dây leo, có nguồn gốc ở các nước nhiệt đới. Mọc hoang hoặc được trồng theo hàng rào để lấy rau ăn. Dùng lá và thân cây non nấu canh, luộc…

    RAU ĐẮNG

    Mọc honag trong những nơi ẩm, ruộng bỏ hoang, lòng suối cạn. Dùng toàn thân, ăn sống hoặc nấu canh.

    CẢI SƠN – CRESSON

    Mọc hoang ở các xứ lạnh, được trồng ở các vùng cao nguyên Việt Nam. Dùng cả cây ăn sống, trộn dầu dấm hoặc nấu canh.

    NGỔ - NGỔ TRÂU

    Mọc hoang trong các ao hồ. Dùng thân cây ăn sống hoặc làm gia vị, nêm canh

    DỪA NƯỚC

    Là loại cây bò hay mọc nổi trên mặt nước, rễ bén ở các mấu, có phao nổi. Dùng toàn cây, ăn sống

    RAU TÀU BAY

    Là loại “cải trời”, mọc hoang ở những vùng rừng chồi, trảng trống, rừng tái sinh… Luộc hay xào nấu như các loại cải trồng.

    BỤP DẤM

    Là loại cỏ cao khoảng 1 mét, mọc ở các bãi đất hoang, thân có gai móc, hoa vàng, lá và đọt non nấu canh hay thay thế dấm.

    DƯA NÚI

    Dây leo hàng năm, thân nhám, mảnh. Trái xoan nhọn, lúc chín màu đỏ. Mọc ở đất hoang và lùm bụi. Trái non và lá dùng nấu canh. Rất đắng.

    GẠC NAI

    Là một loại cây thuỷ sinh, thân mềm, mọc khắp nơi trong nước, ở những vùng đất bùn lầy, đồng ruộng… Ở Nhật, người ta trồng để làm rau ăn.

    CỨT QUẠ

    Loại cỏ bò có thân mảnh. Mọc hoang ở các rừng tái sinh, đất hoang Cao Lạng đến Phú Quốc. Lá người ta thường dùng để câu cá Mè, vinh đọt và lá non nấu canh.

    CÁP VÀNG

    Cây thân mộc, cao khoảng 10 mét. Mọc hoang ở các vùng đất khô Nam, Trung Bộ, hoa màu vàng có vết cam. Người ta dùng lá và hoa để nấu canh.

    CẢI ĐẤT TRÒN

    Cây thân thảo, cao đến 60cm, ít nhánh. Rìa lá có răng không đều. Mọc hoang ở sân vườn và các vùng đất hoang trống trải. Lá dùng như rau cải.

    HẢI CHÂU

    Cỏ mập, nằm, có rễ ở mắt. Lá có phiến hình cái dầm, mập, dầy, không lông. Mọc hoang dựa ven biển. Lá ăn được, tuy nhiên, phải luộc và xả nước thật kỹ.

    DỀN GAI - DỀN CƠM

    Dền gai có thể cao đến 1 mét, phân nhiều nhánh, không lông, thân có gai. Dền cơm thấp nhỏ hơn, thân không gai. Mọc ở vùng đất hoang, dựa lộ… lá và thân luộc hay nấu canh

    CẢI ĐẤT ẨN

    Cỏ hằng niên, cao đến 50cm. Lá nguyên hay có thuỳ hình đờn violon. Mọc hoang ở các rẫy ruộng, đất hoang, còn có khi trồng để lấy lá và hột ăn như rau cải

    CỎ TAM KHÔI

    Là loại cỏ nằm, rồi đứng. Lá mỏng, to, đáy tròn, chót nhọn. Hoa tụ tán dễ thấy, màu xanh. Mọc hoang ở đồng cỏ, rừng thưa. Thân và lá non dùng ăn như rau.

    MÃ ĐỀ - XA TIỀN

    Mọc hoang và được trồng nhiều nơi trong nước, dùng toàn cây để nấu canh ăn cho mát, lợi tiểu

    RAU SAM

    Là một loại cỏ sống hàng năm, thân màu tím hay đỏ nhạt. Mọc hoang ở những vùng cát ẩm. Dùng toàn thân ăn sống hoặc nấu canh.

    MÙI TÀU

    Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi trong nước. Lá ở gốc mọc thành hoa thị, thuôn dài, mép có răng cưa, hơi gai. Lá tươi dùng làm gia vị hay ăn sống

    BÙ NGÓT

    Cây nhỏ, nhẵn, có thể cao 1 – 2 mét. Mọc hoang và được trồng khắp nơi trong nước để lấy lá nấu canh.

    LÁ MƠ

    Còn gọi là mơ tam thể. Là một loại dây leo, lá mọc đối, có phủ lông. Mọc hoang và được trồng khắp nơi trong nước để lấy lá ăn.

    DIẾP CÁ – GIẤP CÁ

    Là một loại cỏ nhỏ, mọc hoang và được trồng khắp các vùng ẩm ướt. Hái toàn thân để ăn sống.

    TAI CHUA

    Là loại cây nhỏ, mọc hoang ở các khu rừng miền Bắc nước ta. Cây còn được trồng để lấy quả và lá ăn hay nấu canh.

    RAU MÁ

    Là một loại cỏ bò trên mặt đất. Mọc hoang và được trồng ở những vùng đất ẩm, thu hái toàn thân để ăn sống, nấu canh hay chế biến nước giải khát.

    SA SÂM

    Là loại cỏ sống lâu năm, rễ phình to thành củ, thân bò chia thành nhiều đốt, mỗi đốt mọc lên một cây con. Thường mọc hoang ở các bờ biển Việt Nam.

    LÁ LỐT

    Còn gọi là dây Lạc Tiên. Là một loại dây leo, mọc hoang khắp nơi trong nước. Lá và đọt non dùng nấu canh. Trái ăn được.

    SO ĐŨA

    Cây thân gỗ, cao 8 – 10 mét. Mọc hoang và được trồng nhiều nơi ở miền Nam nước ta. Hoa, trái non, lá, có thể dùng để xào hoặc nấu canh.

    CÀNG CUA

    Cây cỏ sống hàng năm, mọc hoang ở những nơi ẩm mát. Thu hái toàn cây để ăn sống hay trộn dầu dấm.

    ĐẬU SĂNG

    Cây bụi, cao 1- 2 mét, mọc hoang và được trồng nhiều nơi trong nước. Trái non dùng để xào như đậu ván. Trái già rang để nấu nước uống hay nấu chè.

    VỐI

    Cây cao 3 – 6 mét, mọc hoang và được trồng khắp nơi trong nước để lấy lá và nụ phơi khô, hay ủ nấu nước uống.

    KÈO NÈO

    Mọc hoang ở các ao hồ, đầm lầy, thu hái lá dùng để ăn sống.

    CHUA ME ĐẤT

    Là một loại cỏ bò lan trên mặt đất. Mọc hoang khắp nơi trong nước, thu hái toàn thân để nấu canh, ăn sống.

    CHÈ – TRÀ

    Nếu mọc hoang và không cắt xén, có thể cao đến 10 mét. Hái búp và lá non, vò rồi xao cho khô để nấu nước uống.

    GHI CHÚ: Những cây dùng làm thực phẩm vừa kể trên đây còn có thể dùng làm dược liệu để chữa một số bệnh. Các bạn cần nghiên cứu để kết hợp giữa thực phẩm và thuốc men.

    Những cây hoang dã nhưng có thể dùng làm thực phẩm dưới đây, chúng tôi tham khảo từ tài liệu của BOY SCOUTS OF AMERICA (HƯỚNG ĐẠO SINH HOA KỲ), cho nên hầu hết thường mọc tại vùng Bắc Mỹ. Tuy nhiên, có một số cây cũng mọc ở Việt Nam và một số nước lân cận.

    BLUEBERRY

    Mọc hoang ở Mỹ, Canada, và cận Bắc cực. Quả mọng ăn sống, nấu chín, ướp lạnh hay phơi khô để dành.

    CRANBERRY (MÂN VIỆT QUẤT)

    Mọc hoang khắp Bắc Mỹ. Trái được hái sau đợt sương giá đầu tiên. Trái tươi hay khô đều có thể nấu với đường để làm sốt, mứt hay si-rô.

    BEECH

    Mọc ở các nơi ẩm ướt miền Nam và Đông Hoa Kỳ, Canada. Quả hạch kép, có thể ăn sống hay rang lên xay uống như cà phê. Vỏ trong phơi khô, xay bột làm bánh.

    BIRCH (BU-LÔ)

    Mọc ở những ôn đới Bắc Mỹ. Vỏ ngoài dùng làm thuyền, thùng đựng nước, lợp chòi trú ẩn… Vỏ trong có thể ăn sống, thái nhỏ nấu canh. Lá non nấu uống thay trà.

    BUNCHBERRY

    Mọc hoang ở Hoa Kỳ, Alaska và một vài nơi cận Bắc cực. Quả mọng có thể ăn sống hoặc nấu chín.

    BUTTERNUT

    Mọc ở miền Đông Hoa Kỳ và Canada. Quả hạch có nhiều chất béo, ăn được, nhựa thu hoạch để nấu làm si-rô.

    MAY APPLE

    Mọc hoang ở Canada và Bắc Mỹ. Trái ăn sống, ép lấy nước, làm mứt… Chú ý: thân, rễ, lá, có chất độc.

    ROSE (HỒNG HOANG)

    Mọc hoang ở Bắc Mỹ. Trái có thể ăn sống, hoa làm trà, hạt nghiền làm gia vị.

    PAPAW

    Cây lớn, mọc hoang ở Hoa Kỳ và Canada. Trái ăn rất ngon và là nguồn dinh dưỡng tốt.

    PRICKLY PEAR CACTUS (XƯƠNG RỒNG)

    Thường mọc hoang khắp nơi trên thế giới, ở vùng đất cát và hoang mạc. Trái chín có màu đỏ ăn được, thân chứa nhiều nước, có thể sử dụng để sinh tồn.

    RUM CHERRY

    Cây mọc nhiều từ Canada đến Mexico. Trái có thể ăn sống, nấu chín hoặc chế biến thành rượu.

    OAK ACORN (SỒI)

    Là một trong những cây ăn trái chính của các cánh rừng ở Mỹ và Canada. Trái phải ngâm nước cho tới khi nước có màu vàng để khử đắng. Sấy khô chậm trên lửa rồi nghiền thành bột để làm bánh.

    WILD STRAWBERRY (DÂU TÂY HOANG)

    Mọc ở nhiều nơi trên thế giới. Quả mọng ăn sống hay nấu chín. Lá thay trà. Thân và cuống ăn sống.

    SUNFLOWER (HƯỚNG DƯƠNG)

    Mọc hoang và được trồng khắp nơi trên thế giới. Hạt dùng rang ăn hoặc ép dầu.

    WILD PLUM (MẬN HOANG)

    Mọc ở Bắc Mỹ và Canada. Trái có thể ăn sống, nấu chín, còn dùng để làm mứt và chế biến thành rượu.

    WINTERGREEN

    Mọc ở một số nơi, ở Bắc Mỹ và trên thế giới. Quả ăn sống, lá làm trà.

    SERVICEBERRY

    Mọc ở những vùng trống trải và ẩm ướt ở Bắc Mỹ. Quả mọng ăn sống, phơi khô hay nghiền thành bột để làm bánh
     
  3. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    20. Săn bắn

    SĂN BẮN BAN NGÀY

    Nghệ thuật săn bắn ban ngày gồm có:
    - Phán đoán
    - Phát hiện
    - Tiếp cận
    - Bắn hạ

    I. PHÁN ĐOÁN

    Những người thợ săn có kinh nghiệm, không bao giờ họ đi hú hoạ, vừa tốn sức, vừa không chắc ăn. Trong khu rừng quen thuộc của họ, họ biết chỗ nào có loại chim thú nào. (Ngoài trừ các loại chim thú di cư, còn các loại chim thú địa phương thì ít khi rời quá xa địa bàn cư trú của mình). Họ còn biết những nơi chim thú thường lui tới để kiếm ăn, săn mồi, uống nước… Cho nên khi muốn săn loại thú nào, họ có thể đi thẳng đến khu vực đó.
    Sau vài lần đi săn ở những vùng xa lạ, các bạn cần phải ghi nhớ những khu vực nầy. Có khi hôm nay các bạn bắn hụt một con thú ở khu vực nầy, ngày mai các bạn vẫn còn có thể gặp lại nó lảng vảng ở trong khu vực đó.
    Có những loài thú đi ăn và về theo một lộ trình nhất định, tạo thành những con đường mòn như những cái hang dài ở dưới đám cỏ dầy đặc như: chồn đèn, chuột, nhím… Cũng có những loài rất cảnh giác, không bao giờ ăn cùng một địa điểm như: sơn dương, rái cá, bò tót… và một số thú lớn khác.

    PHÁT HIỆN

    Để phát hiện được con mồi, các bạn cần phải lý giải được những dấu vết do con thú để lại như: dấu chân, phân, lông, bùn sình dính trên thân cây, cỏ cây bị dập nát, đất bị đào xới, mùi hương đặc trưng… hoặc ngay chính tiếng kêu của nó. (Nếu không đi rừng nhiều, các bạn vẫn có thể phân biệt được tiếng kêu của nhiều loại thú khác nhau nhờ các bộ phim về động vật) .
    Nếu con thú đang ở gần bạn, bạn có thể nghe được tiếng cành khô bị đạp gãy, tiếng lá cây, rể cây… bị cắn bứt, tiếng thở phì phò, tiếng lá khô xào xạc…
    Nếu nghe tiếng chim te te đánh ở trảng cỏ hay rừng chồi, thì chắc chắn ở đó đang có một người hay thú đi qua (loài chim nầy không ở trong rừng rậm). Hoặc bầy chim đang ăn chợt vụt bay một cách hoảng hốt…

    TIẾP CẬN

    Để tiếp cận được với con mồi, các bạn phải biết cách đánh lừa, ẩn nấp và nguỵ trang. Có nghĩa là các bạn phải biết hoà mình vào với cảnh vật chung quanh, từ màu sắc cho đến mùi hương.
    - Dùng đất sét, tro, than, nhọ nồi… bôi loang lổ những chỗ da không có áo quần che phủ như hai bàn tay, hai chân, khuôn mặt…

    - Áo quần phải đồng màu với cảnh vật thiên nhiên quanh ta.
    - Không mang theo nón mũ hay khăn quàng có màu sắc sặc sỡ, hoặc các trang sức phản chiếu ánh sáng mặt trời (đồng hồ, mắt kính, dây chuyền…)
    - Không mang theo những vật dụng dễ gây tiếng động như: chùm chìa khoá, bình đựng nước bằng nhôm, các vật dụng bằng kim loại….
    - Không sử dụng dầu gió, nước hoa, các hoá chất có mùi… và cũng không nên hút thuốc.
    - Di chuyển nhẹ nhàng bằng cách rùn chân đi lom khom, đặt mũi bàn chân xuống trước rồi mới từ từ để nhẹ gót chân xuống.
    - Tiếp cận con mồi từ hướng dưới gió, làm cho mất mùi người bằng cách bôi bùn nhão lên mình.
    - Cố gắng ẩn nấp sau các vật che chắn để cho con thú không phát hiện ra mình. (Ẩn nấp ở những điểm thấp thì khó bị phát hiện hơn ở những điểm cao, nhất là những điểm nổi lên nền trời).

    - Có thể giắt thêm lá cây trên người để tăng thêm phần hoà nhập, khó bị phát hiện.
    Đối với các thợ săn chuyên môn, họ có thể tiếp cận một số loài chim thú bằng cách giả tiếng kêu của chúng bằng các loại “kèn”, hay dụng cụ hỗ trợ, hoặc bằng chính giọng của họ (nhưng lưu ý các bạn là phải giả cho thật giống, bằng không thì sẽ phản tác dụng). Khi nghe tiếng kêu nầy, các loài chim thú tưởng là đồng loại, sẽ lần mò đến để bị rơi vào bẫy hay là tầm bắn.

    Những người chưa quen săn bắn, khi tiếp cận con mồi ở cự ly gần thì tim đập mạnh, run tay, bàn tay nhớp nháp mồ hôi… Các bạn hãy hít sâu vào rồi thở ra nhè nhẹ vài lần để cho bình tĩnh trở lại. Nếu không, thì cho dù các bạn có *** vẫn có thể bắn trượt chứ đừng nói tới cung, nỏ hay lao, mác…
    Nếu có ***, với các con thú lớn, các bạn hãy bắn vào đầu, xương cổ, xương bả vai…
    Nếu sử dụng cung nỏ với tên tẩm độc, (Xin xem phần TẨM ĐỘC) thì hãy bắn vào vùng gần tim.
    Trường hợp thú bị thương bỏ chạy, các bạn hãy thận trọng bám theo vết máu, vì nếu là thú dữ, khi bị truy đuổi gắt, chúng sẽ ẩn nấp và bất thần quay lại tấn công chúng ta… Cho dù bạn đã thấy con thú nằm chết, cũng phải thận trọng, vì có thể chúng chỉ giả vờ, hoặc có phản xạ sau cùng trước khi chết, cũng rất nguy hiểm (nhất là thú dữ). Hãy cẩn thận tiến tới từ từ trong tư thế “sắp sẵn”, dò thử bằng cách đứng từ xa ném đá vào chúng, hay lấy sào dài khều vào mõm, cho đến khi biết chắc chúng đã chết.
    Săn ban ngày, ngoài việc lùng sục tìm kiếm, các bạn còn có thể phục kích ở những nơi chim thú thường qua lại, nhất là các điểm có dấu vết của chúng thường lui tới để uống nước. Rất dễ chủ động bắn hạ. Nhưng các bạn phải ẩn nấp dưới gió và nguỵ trang thật kỹ.

    SĂN BẮN BAN ĐÊM
    Là một lối săn rất hiệu quả, nhưng đòi hỏi các bạn phải thuộc đường và có đèn (tối thiểu là đèn pin cầm tay). Trong đêm tối, qua phản xạ của ánh đèn, đôi mắt của các loài thú sáng rực lên. Với kinh nghiệm dày dạn, những người thợ săn có thể phân biệt được đó là giống thú gì qua màu mắt phản chiếu, khoảng cách giữa đôi mắt, kích cỡ của mắt, và sự cử động, nhấp nháy… (thông thường thì các loài thú ăn cỏ, ánh mắt phản chiếu màu hồng. Loài thú ăn thịt thì ánh mặt phản chiếu màu xanh… nhưng đây cũng không phải là công thức.) Để hạ con thú, người ta sẽ bắn thẳng vào giữa đôi mắt đó. Nhưng tác xạ ban đêm là một kỹ thuật, phải qua quá trình luyện tập, và tích luỹ kinh nghiệm, chứ không dễ dàng như nhắm bắn ban ngày.
    Nếu như không có đèn, các bạn chỉ có thể tìm chỗ ẩn nấp để phục kích ngay trước khi trời sụp tối. Tuyệt đối không nên đi lùng sục vào ban đêm, rất nguy hiểm.

    VŨ KHÍ – CÔNG CỤ
    Để săn bắn các loài thú, chúng ta cần phải có ít nhất là một trong những vũ khí hoặc công cụ sau đây:

    ***:
    Là một loại vũ khí kỹ thuật cao, được sản xuất ở những nhà máy lớn. *** có thể sát thương ở tầm xa (có loại trên 300m). Rất hiệu quả trong việc săn bắn. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng có sẵn.

    Cung – Nỏ (ná):
    a) Cung: Là một loại vũ khí dễ chế tạo, nhưng khá hiệu quả với việc săn bắn tầm xa (trong vòng 50m). Để săn chim và các loại thú nhỏ. Muốn săn thú lớn, các bạn phải biết cách tẩm độc đầu mũi tên (xin xem phần TẨM ĐỘC).
    Để làm cung, trước tiên, các bạn chọn một thân cây hay cành cây thật dẻo, cứng, như cò ke, tre già, bời lời… để đẽo thành cánh cung hình hơi bán nguyệt, vừa tay cầm. Giữa lớn, hai đầu nhỏ dần. Ở mỗi đầu, có khắc lõm một chút để buộc dây cung.
    Dây cung là những sợi dây thật chắc, được làm từ dây dù, sợi của vỏ cây gai, vỏ cây da… xe lại, hay từ da thú đã được xử lý…
    Dây cung chỉ căng lên khi nào cần sử dụng, để cho cánh cung không yếu vì bị căng liên tục.

    Mũi tên
    Mũi tên được làm từ những cây cứng và thẳng, dài từ 65 – 75 cm. Đầu chuốt nhọn và trui vào lửa cho thêm cứng. Để tăng thêm phần hiệu quả, người ta có thể gắn thêm ở đầu mũi tên những vật cứng và sắt nhọn bằng đồng, thép, sắt, xương, thuỷ tinh, mảnh đá…
    Chuôi tên được cột bằng 3 lống ống của các loại chim lớn. Lông nầy được xé bỏ bên phần nhỏ, cắt gọn và dùng dây nhỏ, chắc, để cột, ghép, làm sao cho khi bắn không bị vướng vào cánh cung hay bàn tay xạ thủ. Hoặc được xếp bằng lá dừa, lá kè, lá buông…

    Khi bắn, tay trái các bạn cầm cánh cung (nếu các bạn thuận tay phải). Dùng hai ngón tay (trỏ và giữa) của bàn tay phải, kẹp cuôi tên tra vào dây cung đưa ngang lên tầm nhắm. Vì mũi tên sẽ bay vòng cầu cho nên các bạn phải đưa mũi tên chếch lên phía trên tầm nhắm một chút.

    b) Nỏ (ná): Là vũ khí biến thể từ cây cung, nhưng được gắn vào một cái báng gọi là thân ná và có một chốt lẫy gọi là cò. Trên thân ná có khe để đặt cố định mũi tên.
    Mũi tên của ná thì nhỏ và ngắn hơn tên của cung (khoảng 30 – 40cm) Chuôi được kẹp bằng lá buông, lá kè… và cũng có thể được tẩm thuốc độc.
    Ná tuy không nhanh và linh động bằng cung, nhưng ná bắn chính xác hơn, nhất là đối với những người không chuyên nghiệp.

    Ổng thổi (xì đồng):
    Làm bằng một ống kim loại, nhựa cứng hay một đoạn trúc đã được thông mắt một cách rất công phu, thật thẳng. Dài khoảng 60 – 120 cm. Có lỗ đường kính từ 8 – 12 mm.

    Để sử dụng, người ta nhét vào đầu ống một mũi tên nhỏ có tẩm độc. Chuôi tên được cột bằng các loại lông mao rất mịn như lông thỏ, chồn, cáo… hoặc được quấn bằng lá hay giấy hình loa kèn. Nếu làm đúng kỹ thuật, khi thổi mạnh, mũi tên sẽ bay đi rất nhanh và chính xác, có thể sát thương trong vòng 20m trở lại.

    Lao ném tay:
    Là một đoạn cây cứng, dài khoảng 1,2 – 2,5 m, vừa tay cầm và đủ nặng để có thể ném đi xa. Một đầu được đẽo cho thật nhọn, trui sơ trên lửa ngọn. Đầu nhọn nầy có thể thay thế bằng một con dao, mũi mác, cây sắt hay một đoạn xương được mài nhọn…

    Muốn sử dụng lạo cho có hiệu quả, các bạn phải luyện tập để ném được xa, mạnh và trúng đích. Ngoài sức khoẻ, các bạn cũng phải lưu ý đến độ thăng bằng của lao, để khi ném, lao không bay vòng vèo trong không khí. Sử dụng lao cần phải tiếp cận thật gần với con mồi, rồi bất ngờ ném thật mạnh vào bả vai trước, con vật sẽ quỵ xuống, không chạy được. Các bạn hãy bồi thêm những ngọn lao khác (khi đi săn những thổ dân thường mang theo 3 – 4 ngọn lao).

    Boomerang
    Đây là loại vũ khí độc đáo của thổ dân châu Úc, có hình cong, được uốn vênh như cánh quạt, làm bằng gỗ. Qua quá trình luyện tập kết hợp với trực giác, người ta thay đổi góc ném, lực ném và đường ném, để khi ném boomerang đi, nếu không trúng mục tiêu, thì boomerang sẽ quay trở về với người ném. Muốn ném cho hiệu quả, các bạn phải biết cách làm một boomerang, và phải tập ném rất lâu.

    Bola
    Người Eskimo dùng bola để săn chim đang bay và thú chạy. Bola được làm từ những sợi dây dài khoảng 1m, một đầu cột lại với nhau, một đầu cột túi cát nặng vừa tay.
    Khi ném, họ cầm chỗ cột 3 sợi dây và quay trên đầu để lấy đà, rồi ném đón đầu chim đang bay hay thú đang chạy. Lực quán tính sẽ làm cho bola quấn vào cánh của chim hay là chân của thú.

    Chỉa
    Là một loại vũ khí dễ chế tạo và dễ sử dụng. Khá hiệu quả khi săn bắt cá, bò sát, thú nhỏ… cũng như khi tự vệ. Chỉa thường có ngạnh hay ngàm để giữ con vật bị đâm lại cho khỏi tuột. Các bạn có thể chế tạo đầu chỉa bằng sắt thép, gỗ cứng, xương… như hình dưới đây.

    Các bạn cũng có thể dùng một khúc tre già, một đầu chẻ nhỏ cỡ bằng chiếc đũa, chuốt nhọn từng cây một. Dùng các mảnh trẻ hay gỗ nhỏ chêm cho loe ra, hơ sơ vào lửa ngọn, ta có một cái chỉa đa năng dùng để đâm cá, và các động vật nhỏ một cách dễ dàng mà không cần phải có tay nghề cao.

    TẨM ĐỘC MŨI TÊN
    Để săn các loại thú lớn, có sức khoẻ, chúng ta cần tẩm một số tên dành riêng. Công việc nầy cần phải làm thật cẩn thận, vì nó là con dao hai lưỡi.
    Các chất độc để tẩm vào tên thường được lấy từ thực vật hay động vật hoặc chế biến từ các hoá chất…

    CHẤT ĐỘC LẤY TỪ THỰC VẬT.
    Người ta lấy nhựa của cây Nổ Tiển Tử (Antiris toxicaria Lesch). Thuộc họ dâu tằm (Moraceae), còn gọi là cây Sui, để tẩm vào mũi tên.
    Là một loại cây cao lớn (khoảng 30m), cây Sui mọc hoang nhiều ở rừng núi Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Ấn Độ, Indonêxia, Malaixia…
    Người ta lấy nhựa bằng cách băm vỏ cây cho nhựa chảy ra. Những người đi lấy nhựa phải là người khoẻ mạnh, không bị các vết sây sát, trầy sướt… vì nếu để nhựa Sui dính vào những nơi đó có thể vong mạng.
    Những con vật bị trúng tên tẩm nhựa Sui, gần như bị chết ngay tức thì, dù có chạy cũng không xa. Tuy nhiên, thịt các con vật nầy vẫn mềm mại và ăn được.

    BÀI THUỐC TẨM TÊN ĐỘC CỦA NGƯỜI CHÂU RO
    1. Sừng dê (Cồng cộng)
    2. Mã tiền (Củ chi)
    3. Lá Két
    4. Trái Giấy
    5. Thuốc Rê (thuốc hút loại nặng)

    Mỗi thứ một nắm, dùng nồi đất mới (không được dùng nồi kim loại) cho vào.
    Nước nhất: Đổ nước lạnh vừa ngập, nấu trên lửa nhỏ cho đến khi còn 1/3, rót ra trong một thau bằng đất hay nhựa thật sạch.
    Nước hai: Đổ nước lạnh vào lại nấu như nước nhất.
    Nước thuốc: Hai nước trên đổ chung lại nấu cho đến khi hơi sền sệt là được (không được quá sệt, vì khi nguội sẽ bị đông cứng không sử dụng được). Nhúng đầu các mũi tên vào, lăn tròn rồi đem ra để nguội.
    Khi trúng tên tẩm độc nầy, con mồi sẽ bỏ chạy một đoạn (xa gần tuỳ theo thú lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu), nhưng chúng sẽ nhanh chóng kiệt sức, và phải dừng lại để ói mửa trước khi chết. Những người thợ săn lắng nghe tiếng ói mửa của con thú để phát hiện ra chúng. Loại thuốc nầy còn làm cho con thú dãy dụa rất mạnh trước khi chết (do tác dụng của mã tiền), cho nên dù con mồi có bị vướng ở trên cây cũng phải rơi xuống đất, giúp người thợ săn dễ dàng thu nhặt.

    Ghi chú: Đây là một bài thuốc bí truyền của người Châu Ro, khi tiến hành pha chế, họ luôn luôn tuân thủ một số nghi thức thần bí như: Chỉ đi một mình, và không báo cho bất cứ một ai biết. Khi tìm thấy nguyên liệu, phải làm nghi thức trước khi thu hái. Nấu thuốc một mình trong rừng vắng, nếu bị ai bắt gặp mẻ thuốc đó coi như bỏ…

    CHẤT ĐỘC CURARE:
    Là một chất độc bí truyền, bắt nguồn từ một số dân tộc vùng Nam Mỹ (Amazon). Đặc điểm của curare là độ độc rất cao, nếu đi vào máu là chết ngay, nhưng gần như không độc khi ăn uống, cho nên thịt của con thú bị trúng tên vẫn có thể ăn được mà không sợ bị ngộ độc. Có nhiều cách để điều chế curare từ nhiều cây khác nhau.
    Ở Việt Nam, chúng ta cũng có những cây có thể điều chế curare như cây Chondodendron tomentosum Ruiz Pav, thuộc họ Tiết Dê (Menis permaceae). Cây Strychnos Cartelnaci Weld thuộc họ Mã Tiền (Loganiaceae)…
    Muốn chế curare, người ta cạo vỏ cây tươi của các cây trên, rồi dùng cối xay nhỏ, cho thêm nước vào khuấy đều, lọc, rồi cô trên lửa nhẹ trong nồi đất nung. Thỉnh thoảng, nếm thử xem đủ đắng chưa, curare càng đắng càng độc.
    Những con thú trúng tên có tẩm curare ít khi chạy được quá 100m. Cho dù đó là sư tử, hổ hay gấu…

    CHẤT ĐỘC LẤY TỪ ĐỘNG VẬT:
    Có rất nhiều loại ếch độc trong các đầm lầy ở Nam Mỹ. Các tuyến chất độc nằm ở ngoài da có màu rất sặc sỡ của chúng. Loại chất độc nầy rất mạnh, thổ dân dùng để tẩm đầu các loại tên.

    Người ta cũng sử dụng chất độc từ một số nọc rắn độc, tuy hiếm hoi nhưng khá hiệu quả, thường dùng trong chiến đấu.
    Bộ tộc Calahari ở Nam Phi còn dùng ấu trùng cực độc của một loại bọ lá để bịt đầu tên.
    Ngoài ra còn vô số chất độc bí truyền của các thổ dân và các dân tộc (kể cả các dân tộc ít người ở Việt Nam, mà người ta giữ rất bí mật công thức pha chế.)
     
  4. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    21. Đánh bắt

    ĐẶT BẪY
    Đây có lẽ là phương pháp mưu sinh xưa nhất trong lịch sử của nhân loại. Từ thưở còn săn bắn hái lượm, con người đã biết đánh bẫy. Vì bẫy là một công cụ tự động bắt thú, giúp cho con người có thêm nguồn thực phẩm, trong khi con người còn dành thời gian cho những việc khác.
    Từ các loại bẫy thô sơ thời cổ đại cho đến các loại bẫy tinh vi hiện nay, tất cả đều dựa trên một nguyên tắc cơ bản từ xa xưa, cho nên chỉ cần hiểu nguyên lý vận hành của một vài cái bẫy, là các bạn cũng hiểu các cài đặt các bẫy khác. Tuy nhiên, không phải cứ có bẫy tốt, tinh vi, là chúng ta đánh được thú. Không phải cứ sắm cần câu đắt tiền là chúng ta câu được cá,… mà chính ở bản thân chúng ta phải có kinh nghiệm và am hiểu tập tính cũng như thói quen của các loài động vật, nhất là những loài mà chúng ta dự tính đánh bắt.
    Thật ra, cũng chẳng có gì là khó khăn lắm, nếu các bạn chịu khó quan sát, tìm hiểu, lý giải các loại dấu vết, mạnh dạn bắt tay thực hành, cộng thêm một vài lần… thất bại, thì chỉ trong vòng một thời gian ngắn, các bạn cũng sẽ tích luỹ được một số kinh nghiệm.
    Có rất nhiều loại bẫy khác nhau dành cho từng loại chim thú khác nhau. Có loại bẫy giết chết con mồi, có loại bẫy bắt sống. Có loại dành cho thú lớn hay thú dữ, có loại dành cho thú nhỏ. Có loại phải dùng mồi nhử, có loại không. Có loại cài xong chúng ta chỉ phải đi thăm một hay hai ngày một lần, nhung cũng có loại chúng ta phải chủ động đứng nhìn để khởi động bẫy… các bạn phải tùy theo hoàn cảnh, tình huống,… mà chọn cách đặt bẫy, để không hao tốn công sức nhiều mà hiệu quả cao.
    CHỌN NƠI ĐẶT BẪY
    Hầu hết các loại thú đều có hai môi trường sinh sống. Thí dụ: Rừng rậm là nơi trú ẩn và đồng cỏ là nơi kiếm ăn. Hoặc thảo nguyên là nơi sinh sống và ao hồ là nơi uống nước… Do đó, các bạn nhất thiết phải tìm cho được con đường mà chúng thường xuyên lui tới để ăn uống, săn mồi, nghỉ ngơi (có nhiều loại thú lui tới chỉ bằng một con đường mòn nên rất dễ nhận thấy).
    Vào đầu mùa mưa, cỏ non mọc nhiều nên các loài thú di chuyển kiếm ăn nhiều hơn. Đây là thời điểm đánh bẫy hiệu quả nhất. Còn vào mùa khô, các bạn nên tập trung các giàn bẫy ở những vùng có nước.
    Tuy nhiên, các loài thú hoang dã rất nhút nhát và cảnh giác cao, nhất là những vùng bị săn bắn nhiều như ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. Nếu các bạn không ngụy trang kỹ và để cho thời gian làm mất hơi người ở nơi đặt bẫy, thì khó lòng mà đánh lừa được các con thú… Cho nên khi đặt bẫy, các bạn không nên cày xới hay dẫm đạp nhiều làm cho hơi người lưu lại quá lâu.
    Các bạn cũng không nên quá tin vào những công thức của sách vở, tài liệu của nước ngoài. Vì ở đó thú hoang được bảo vệ và gần gũi với con người, cho nên rất dễ đánh bắt..
    Nếu trên con đường mòn của thú đi lại mà có một thân cây ngã nằm ngang từ lâu thì rất tốt. Các bạn đặt hai bên thân cây (trên con đường mòn) mỗi bên một bẫy. Nếu con thú nghi ngờ bên này, nó sẽ rướn mình để nhảy sang bên kia thì cũng bị dính.
    Dưới đây là những nơi mà các bạn nên cài đặt bẫy để cho có hiệu quả cao:
    - Những đường mòn xuyên qua vành đai bụi rậm dẫn đến ao, hồ, suối, nguồn nước, rừng rậm, đầm lầy,…
    - Những hẻm núi.
    - Những nơi có nguồn thức ăn phong phú.
    - Dọc theo hai bờ sông suối.
    - Những vũng nước còn đọng lại trong mùa khô.
    Nhưng tốt nhất là các bạn nên rấp luồng.
    Rấp luồng:
    Vào đầu mùa mưa, các bạn chọn những vùng có nhiều chim thú qua lại, chặt nhiều cành cây cắm thành một hàng rào zic zắc thật dài, càng dài càng tốt (có nhiều người rấp một luồng dài hơn 10 cây số), mục đích của luồng là làm cho con thú không dám vượt qua hàng rào này mà ép chúng nó phải vào góc. Ở mỗi góc zic zắc, các bạn trổ một cửa và gài vào đó một cái bẫy (tuỳ theo kinh nghiệm cũng như loại thú để chúng ta chọn bẫy cho thích hợp). Một luồng như vậy, có khi phải cần đến hàng trăm cái bẫy.
    CÁC LOẠI BẪY THÚ
    BẪY HẦM
    Khi cần đánh bắt thú lớn mà thiếu công cụ trong tay, bẫy hầm là một loại bẫy hiệu quả nhất.
    Các bạn chọn nơi mà con thú thường qua lại hay buộc phải qua lại như hẻm núi, đường mòn, luồng,… để đào một cái hầm rộng khoảng 1.5m x 1.5m (có thể rộng hơn hay hẹp hơn tuỳ theo địa thế và loài thú mà chúng ta định đánh bắt). Sâu khoảng hơn 2 mét, đáy hơi hẹp để cho thú khó lòng xoay xở. Bên trên các bạn gác ngang dọc nhiều cây nhỏ rồi phủ cỏ và lá cây lên. Trải một lớp đất mỏng trước khi ngụy trang bằng lá khô (nếu chung quanh phủ đầy lá khô). Vì đào xới nhiều cho nên loại bẫy này cần một thời gian khá lâu, hoặc qua một vài cơn mưa làm mất hơi người thì mới có kết quả. Khi thú bị sập hầm, các bạn có thể giết bằng lao hay đưa lên bằng thòng lọng.
    BẪY ĐÂM (THÒ, LAO CHÔNG)
    Đây là loại bẫy cực kỳ nguy hiểm, dùng để giết chết con mồi, cho nên khi cài đặt loại bẫy này, các bạn phải chắc chắn rằng: đây là nơi không có dân cư qua lại, và nên để những dấu hiệu báo nguy cho mọi người và cho chính cả bạn (nếu các bạn có nhiều người thì không nên cài loại bẫy này).
    Có hai loại bẫy đâm thông dụng:
    1. Loại dùng chính sức nặng của con thú
    2. Loại dùng lực tác động bên ngoài
    Loại dùng chính sức nặng của con thú
    Đơn giản nhất trong loại này là hầm chông (tức kết hợp giữa bẫy hầm và chông). Sau khi đào hầm xong (không cần sâu lắm) các bạn cắm một vài cây chông. Khi thú sụp hầm sẽ bị chông đâm xuyên qua người.
    Loại dùng lực tác động bên ngoài
    Các bạn chọn một cây tre đực già (loại tre gần như đặc ruột) để làm cần bật, có gắn một vài mũi lao như hình minh họa. Các bạn có thể cài từ trên đập xuống hay từ một bên phạt ngang qua. Điều chỉnh cao thấp làm sao cho vừa tầm với con thú.

    BẪY SẬP - BẪY ĐÈ
    Có lẽ đây là một loại bẫy kém hiệu quả đối với những con thú lớn, vì thường loại bẫy này cần phải có mồi nhử, mà thú lớn thì rất cảnh giác với các loại mồi lạ. Nhưng cũng khá hiệu quả đối với các loài thú nhỏ như chuột, sóc, nhen,…
    Bẫy được làm bằng những vật năng như đất, đá, lóng cây,… để đè chết con mồi. Bẫy thường được cài đặt nơi thú thường lui tới kiếm ăn nên nhất thiết phải có mồi.

    BẪY THÒNG LỌNG
    Người ta dùng nút thòng lọng để làm nhiều loại bẫy khác nhau, có hiệu quả rất cao, trong đó, giản dị và hữu hiệu nhất là bẫy cò ke (xem hình vẽ). Đây là một loại bẫy rất bén (nhạy) bất kỳ loài chim thú nhỏ nào đi dưới đất (kể cả loài bò sát) đều có thể bị dính cả.

    Bẫy thòng lọng rất đa dạng. Có loại dùng cần bật. Có loại dùng chính sức trì kéo của con thú. Có loại kèm thêm mồi nhử. Có loại siết cổ. Có loại siết chân.

    Hoặc dùng thòng lọng kết hợp với vòng hom bằng cây hay bằng thép. mục đích của hom không hẳn là để giữ chân thú lại, mà để cho những sợi thòng lọng bằng cáp kịp thời siết chân con mồi để không bị sẩy.

    Bẫy thòng lọng còn dùng để đánh bắt các loại chim như các kiểu sau đây:

    Dò (nho)
    Dùng để bẫy chim. Được làm rất công phu bằng những sợi mây cực dẻo (mây rã). Kết hợp với những sợi thòng lọng làm bằng các loại dây mảnh và chắc (dây gai, tơ tằm, …) Được cài đặt trên những vùng các loại chim hay qua lại kiếm ăn. Dò có nhiều cỡ: lớn, nhỏ, dài, ngắn,… để đánh bắt các loại chim khác nhau.
     
  5. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    22. Đánh bắt dưới nước

    Nếu khu vực nơi bạn đang ở có ao, hồ, sông, suối,… thì cơ may sống sót của các bạn có thể rất cao. Vì ngoài nguồn nước để sinh hoạt, các bạn còn có thể tìm thấy vô số thực phẩm từ động thực vật ở trong môi trường nước hay ở ven bờ như: Cá, tôm, cua, lươn, ếch, ***, ốc, trai, hến,… và các loại rau.
    Để đánh bắt các động vật ở dưới nước, các bạn có rất nhiều cách. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao, các bạn cũng phải am hiểu phần nào tập tính của các cư dân ở thuỷ cung này. Thí dụ như các loài cá thường ra khỏi nơi ẩn náu vào lúc chập tối và lúc hừng sáng (nhất chạng vạng, nhì rạng đông). Lúc trưa nắng, cá thường ẩn mình trong bóng mát hoặc nơi có nước sâu… Vào những cơn mưa lớn đầu mùa (tháng 5 –tháng 6) thì cá lội ngược dòng nước để tìm nơi sinh sản. Nhưng khoảng tháng 9 tháng 10, khi có gió Bấc từ hướng Đông Bắc thổi nhẹ (gọi là Bấc cầu tài), nếu có mưa lớn, thì cá sẽ xuôi theo dòng nước để trở về nơi cư trú. Những lúc này, bằng mọi cách, có khi phải trườn lên bờ hay phóng mình qua những giàn đăng, cá cũng phải liều mạng để đi cho bằng được.
    Lợi dụng cơ hội này, nhiều người đã chuẩn bị đón chúng bằng những giàn lưới, đáy, trủ, xa, vó, đăng, lợp,… Tuy nhiên, đây chỉ là những thời vụ đặc biệt, thu hoạch cao, nhưng kéo dài không lâu, thường thì không quá một tuần lễ. Khi mà con cá sặc rút đi hàng đàn... là cá hết chạy.
    Còn quanh năm, chúng ta vẫn có thể đánh bắt bằng nhiều cách như: câu, nơm, giăng lưới, đặt lờ, đi soi, tát cạn, cất vó, đánh dậm, duốc (thuốc) cá, đâm chĩa,…
    Ngoài ra, nếu các bạn có lưới hay biết cách đan cho mình những tấm lưới bằng dây rừng tự chế (Xin xem phần CHẾ TẠO CÔNG CỤ) thì cá bạn có thể chế tạo và ứng dụng vào vô số công cụ đánh bắt. Từ chim, cá cho đến các thú rừng lớn nhỏ.
    Bây giờ, chúng ta chỉ điểm qua những phương pháp khả thi (khi mà trong tay các bạn chỉ có một con dao)
    ĐĂNG (SÁO):
    Dùng tre, nứa, trúc, sống lá,… chẻ ra cỡ bằng ngón tay hay nhỏ hơn. Dài ngắn tùy theo mực nước. Vót nhọn một đầu, rồi dùng dây (dây rừng, dây mây, …) bện lại thành từng tấm như mành. Đăng ít khi dùng để bắt cá mà thường dùng để ép cá phải bơi theo hướng mà chúng ta muốn. Đăng được dùng trong nhiều cách đánh bắt khác nhau.

    LỜ, LỢP (NÒ):
    Được làm từ những thanh tre mảnh, bện lại với nhau bằng các loại dây và được cố định bằng những khung tròn hoặc vuông. Ở miệng gắn hom để cá tôm vào được nhưng không ra được

    Lờ được đặt ở những giòng nước chảy. Nếu giòng nước hẹp, vừa miệng lờ, thì không cần dùng đăng, Nhưng nếu là suối, lạch, mương,… lớn, thì phải dùng đăng để ép cá vào lờ.
    Đầu mùa mưa, đặt lờ để đón cá lên, nên đóng đăng theo hình chữ V ngược với giòng nước. Cuối mùa thì đặt chữ V xuôi với giòng nước, để hứng cá xuống.

    Những người có kinh nghiệm biết là những con cá tinh khôn (thường là cá lớn) sẽ không bơi vào lờ mà hoặc là phóng qua giàn đăng, hoặc là chờ đến đêm tối, sẽ trườn lên bờ, lách qua hai đầu giàn đăng để thoát thân. Cho nên họ căng một tấm lưới như mắc võng bên kia đăng để đón cá nhảy qua và đặt hai đầu đăng hai cái lợp để đón cá trườn qua. (hai đầu này, người ta thấm nước, đập đập cho cỏ nằm rạp xuống thành một “con đường mòn” để dẫn dụ cá)

    XA:
    Lợi dụng tập tính đầu mùa mưa cá lên đẻ, cuối mùa mưa cá về vực. Người ta làm những giàn xa để hứng cá. Xa được làm ở những nơi có nước chảy như sông, suối, khe, mương, lạch,…
    Trước tiên, người ta lấy những cây lớn đóng thành hàng cừ rất chắc chắn (nếu cần, phải đóng thêm những cây chống để có thể chịu được sức đạp của nước khi có lũ). Sau đó cặp đăng vào cừ. Trên đầu đăng, người ta làm những sàn hứng cá có độ nghiêng tập trung vào một điểm, ở điểm này, người ta chừa lỗ để đặt giỏ hứng cá. Khi cá đến giàn xa, bị đăng cản lại, theo bản năng, chúng sẽ phóng lên để vượt qua và bị rớt vào sàn hứng, tuột theo độ nghiêng để vào giỏ…

    Không phải chỉ có đầu hoặc cuối mùa mưa cá mới chạy, mà cả giữa mùa, khi có những cơn mưa lớn sau 5 – 7 ngày nắng, cá cũng chạy.
    Một giàn xa làm đúng quy cách, đúng địa thế, đúng thời điểm,… một ngày đêm, có thể thu hoạch vài tạ cá.

    TẦM PHỘC:
    Vào mùa khô, khi giòng suối gần kiệt nước, chảy lừ đừ… các bạn có thể kích thích cá chạy bằng cách đắp bờ và cho nước đổ xuống qua những bọng cây đặt nghiêng 45o. Trên đầu mỗi bọng cây, người ta chụp một cái lợp có gắn toi. Nghe tiếng nước chảy, cá sẽ bị kích thích, cố gắng vượt ngược nước và sẽ bị rơi vào lợp.

    VÓ - RỚ:
    Gồm có hai cây chéo để căng một tấm lưới hình vuông và một cây dài để làm cần vó. Trong những ngày có mưa lớn hay lũ lụt, người ta đem vó ra những nơi có nước chảy siết, chọn những búng nước quần lại (cá tạm nghỉ) để đặt vó. Ven sông rạch, người ta làm sẵn giàn để cất vó lớn vào những ngày có thủy triều chênh lệch lớn hay những ngày có mưa gió.

    VỢT:
    Hình dạng cây vợt thì ai cũng biết, nhưng để bắt cá bằng vợt thì không dễ chút nào. Ngoài việc để sẵn vợt dưới nước, nhử mồi cho cá tụ lại rồi bất ngờ vớt lên thật nhanh, các bạn còn phải biết cách ép cá vào góc, vào vũng nhỏ.

    Khi không có lưới, các bạn có thể bọc khung vợt bằng nhiều lớp mạng nhện (loại nhện hùm), cũng có thể bắt được một số cá nhỏ.
    NƠM:
    Đây là một dụng cụ đánh bắt rất phổ biến trong các vùng nông thôn Việt Nam. Nơm được bện bằng tre và mây (hoặc các loại dây). Dùng để kết hợp với đèn đi soi vào ban đêm, hay đi nơm ban ngày. Người ta dùng nơm để bất ngờ chụp vào những nơi nghi là có cá (hay các loại động vật ở dưới nước) ẩn núp, rồi bắt bằng tay.

    CÂU:
    Điều kiện tối thiểu để câu cá là các bạn phải có lưỡi câu và dây câu. Nếu không có, các bạn phải biết cách chế tác bằng các vật liệu mà các bạn có thể kiểm được như gỗ, kẽm, xương, đinh,… và các loại dây rừng

    Khi đã có lưỡi câu và dây rồi, thì các bạn phải có mồi câu. Mồi có thể là ***, giun, dế, cào cào, tôm tép, trứng kiến, cua đồng, ruột thú, cá nhỏ,… Tùy theo cách câu và loại cá các bạn định bắt mà móc mồi. Có những loại mồi chúng ta phải để còn sống dùng câu các loại cá dữ chuyên săn mồi sống như cá lóc, cá chẻm,… hoặc phải để mồi cho thối để câu các loại cá như cá trê, lươn,… Khi móc mồi, các bạn cố gắng nguỵ trang che dấu lưỡi câu.

    Các cách câu thông thường là: câu phao, câu rê, câu giăng, câu cắm, câu nhắp,…
    Câu phao:
    Vật dụng gồm có: cần, dây, lưỡi, phao, chì và… mồi. Đây là cách câu phổ thông nhất, dễ dàng nhất. Ngay cả những người chưa bao giờ câu, cũng có thể câu được. Nhưng để câu cho có hiệu quả cao, các bạn phải biết chọn mồi cho thích hợp với loại cá bạn định câu và phải biết cách điều chỉnh phao sao cho phù hợp với độ sâu của nước, đây cũng là một hình thức thư giãn khi nhàn rỗi.

    Câu rê:
    Cách câu này đòi hỏi một số kỹ thuật và kinh nghiệm, nên có vẻ chuyên nghiệp hơn. Nếu có tiền và phương tiện thì người ta sắm cần câu máy, còn nếu không, các bạn chỉ cần một cành trúc, một vòng gỗ cuộn dây, một sợi dây tốt và một lưỡi câu. Các bạn cũng phải học cách móc mồi sao cho mồi đừng mau chết, cách quăng mồi sao cho xa mà không vướng, cách cuốn dây kéo mồi sao cho tự nhiên… vì cách câu này thường bắt được cá lớn, cá ăn mồi sống, nên chọn mồi cũng là một khâu quan trọng.

    Câu cắm
    Cách câu này muốn có “năng suất” thì các bạn nên làm nhiều cần (khoảng 50 cần là vừa sức). Mỗi cần dài từ 0.7 đến 1 mét. Trước khi trời tối, các bạn móc mồi đem cắm ven bờ sông, suối, ao, hồ,… Khi cắm xong cần cuối cùng là các bạn có thể đi thăm lại cần đầu để thu hoạch hay thay mồi.

    Câu giăng:
    Cũng giống như câu cắm nhưng thay vì cần câu, người ta buộc nhiều lưỡi câu vào một sợi dây có gắn phao, thay vì cắm ven bờ thì người ta thả giữa giòng nước.

    Câu bật tự động:
    Giống như câu cắm, nhưng người ta làm một chốt bật tự động (như hình minh họa) để cho lưỡi câu cắm sâu hơn làm cá khó bị sẩy.

    Câu nhắp:
    Cách câu này thường dùng để câu ếch, cóc, ***, bù tọt,… Người ta thường móc mồi, rồi nhắp theo ven các bờ ao, hồ, đầm lầy,… rất dễ dàng có kết quả, vì loài lưỡng cư này khá dạn dĩ. Nếu không có lưỡi câu, các bạn chỉ cần cột chặt mồi và kèm theo một cái vợt. Khi ếch cắn mồi, bạn chỉ cần dỡ nhẹ lên, đồng thời đưa vợt ra hứng. Khi ếch nhả mồi sẽ bị rơi vào vợt.
    SOI
    Nếu các bạn có đèn pin và pin dự phòng hoặc đèn pin bóp tay không cần pin (hand dynamo flashlight) thì quá tốt. Bằng không, các bạn phải làm một cây đuốc (Đuốc có thể làm bằng bùi nhùi tẩm nhựa thông, dầu rái, dầu mù u, mỡ động vật, …), hoặc đèn bão hay bất cứ một loại đèn nào. Lấy một miếng thiếc hay vỏ cây tươi che bớt một bên.
    Trời vừa sụp tối là các bạn đi đến những lỗ trổ, khe nước chảy, các vũng nước, ven sông, suối, ao, hồ, bờ biển,… Dưới ánh sáng của ngọn đuốc, các bạn có thể gặp đủ thứ động vật mà chúng ta có thể làm thực phẩm như: chim, cá, cua, lươn, rắn, rùa, cóc, ếch,… (vào những cơn mưa lớn đầu mùa, ếch từ trong hang ra “bắt cặp”, các bạn chỉ có việc lần theo tiếng kêu, đến lượm bỏ vào giỏ)

    Đi soi, các bạn có thể bắt bằng đủ mọi cách mà bạn có được như: nơm, chặt bằng dao, đâm bằng chĩa, chụp bằng vợt, đập bằng cây, bắn bằng tên,… thậm chí bắt bằng tay.
    TÁT:
    Đang giữa mùa mưa mà gặp thời kỳ nắng hạn (như “hạn bà chằn” vào khoảng tháng 7 tháng 8 âm lịch). Các bạn tìm đến những vũng nước nhỏ, sẽ thấy vô số cá bị mắc cạn ở đó. Chỉ cần be (đắp) bờ, tát cạn, tha hồ mà bắt. Vào mùa khô, những ao hồ có nước quanh năm, thường là nơi hội tụ đủ loại cá. Tuy nhiên, những nơi như thế, muốn tát cạn phải tốn rất nhiều công sức.
    ĐẶT TRÚM:
    Là một phương pháp dùng để bắt lươn. Trúm là một ống tre lớn được thông mắt, (hoặc bất cứ vật liệu gì hình ống) có đường kính từ 40 – 60 mm, dài khoảng 0.8m – 1.2 m. Một đầu bịt kín (có dùi một vài lỗ nhỏ để thông hơi). Một đầu gài toi (hom).
    Trước khi đem đi đặt, các bạn đào bắt một mớ giun đất, hay bắt cua đồng băm nhuyễn (có thể cho thêm ít cám rang) rồi trét lên toi hoặc bỏ mồi vào trong trúm để nhử. Buổi chiều đem đi đặt ở những nơi lươn thường lui tới, sang hôm sau thì đi thu hồi.

    Khi đặt, ghim đầu có toi sát đáy, dằn lên ít rơm hay cỏ mục. Phía đầu bịt kín (có lỗ thông hơi) ló lên khỏi mặt nước, để khi lươn vào trúm, còn có không khí mà thở. Nếu không, lươn sẽ chết ngợp hoặc phá toi mà ra.
    Tùy theo con nước, nếu gặp vùng có lươn, các bạn chỉ cần làm chừng chục ống, là sẽ có một nguồn thực phẩm “dư ăn dư để”.
    DUỐC (THUỐC) CÁ:
    Trong thiên nhiên hoang dã, có rất nhiều cây có chất độc. Nếu giã nát hay băm nhỏ, đổ xuống ao, hồ, sông, suối,… thì cá sẽ nổi lên, chúng ta có thể bắt ăn mà không sợ bị tác hại.
    Những cây duốc cá chúng ta thường gặp ở rừng núi Việt Nam là: thàn mát, niệt gió, xương khô, chẹo, hạt củ đậu, hột mát, ô đầu,…
    Thàn mát:

    Thàn mát là một loại cây to, cao từ 5 – 10 mét, trái có hình dạng con dao mã tấu. Cây mọc hoang ở các tỉnh miền thượng du nước ta như Hà Tây, Hòa Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Bắc Thái. Một vài nơi ở Hà Nội có trồng để lấy bóng mát.
    Người ta lấy hạt thàn mát tán nhỏ, trộn với tro bếp, rắc vào giòng nước suối đã ngăn lại, cá sẽ chết.

    Cổ giải:

    Cổ giải là một loại cây gỗ lớn, cao từ 10 – 12 mét. Mọc hoang tại các vùng núi đá vôi ở Ninh Bình, Hà Nam, Vĩnh Phú, Chiêm Hóa,… Đôi khi còn thấy mọc ở núi đất.
    Người ta dùng vỏ cây tươi (vỏ khô ít hiệu quả) giã nát để duốc cá (nếu trộn vào cơm hay cháo, có thể dùng làm thuốc diệt ruồi).

    Ba đậu (ba nhân, mần để, cây đết)

    Là một cây nhỡ, cao tầm 3 – 6 mét, cành nhẵn (xin đừng lầm với cây ba đậu gai hoặc cây ba đậu cọc rào có nhiều ở miền Nam nước ta). Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều tỉnh miền Trung và miền Bắc nước ta, cây còn mọc ở Trung Quốc và một số nước lân cận. Khi cần duốc cá, người ta giã nát hạt ba đậu đổ xuống nước.
     
  6. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    Cây hột mát (cây xa, thàn mát):

    Là một cây to, cao từ 8 – 25 mét. Mọc hoang nhiều trong các miền rừng núi Việt Nam, nhưng mọc và được sử dụng nhiều nhất ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Người ta dùng hạt tán nhỏ, cho xuống nước, cá ngộ độc sẽ nổi lên, chúng ta có thể vớt lên ăn mà không sợ bị tác hại

    Cây chẹo (cây cơi, hoàng khởi)

    Chẹo là một cây nhỡ, cao chừng 8 mét, cành lá mềm yếu. Mọc hoang khắp các miền rừng núi nước ta, kể cả miền Trung và miền Bắc. Còn mọc ở Malaysia, Lào và miền Tây Nam Trung Quốc.
    Người ta dùng vỏ và lá của cây chẹo giã nát, cho vào nước suối (đã ngăn) để duốc cá.

    Mắc Ken (bàm bàm)

    Là một cây nhỏ, cao từ 3 – 5 mét. Lá kép chân vịt có cuống chung. Mắc ken mọc hoang và được trồng tại một số tỉnh miền Bắc nước ta, nhiều nhất là tại những vùng có núi đá vôi như: Lạng Sơn, Hoà Bình, Bắc Thái,… Còn mọc ở Lào và Nam Trung Quốc.
    Người ta dùng vỏ cây mắc ken giã nát để duốc cá.

    Xương khô (cành giao)

    Là loại cây nhỡ, có thể cao từ 4 – 7 mét, cành nhiều, nhỏ, màu xanh, chỉ mang một ít lá nhỏ. Thoáng nhìn, người ta có cảm tưởng là một cây không có lá. Hiện nay, cây được trồng khắp nơi để làm cảnh hay hàng rào (người ta cho rằng, ai bị nhựa bắn vào mắt sẽ bị mù). Tại Ấn Độ, Philippin, Malaysia,… người ta đập nát cành cây này để duốc cá.

    Niệt gió(độc ngư đằng, gió cánh)

    Niệt gió là một loại cây nhỏ, quanh năm xanh tươi, cao từ 0.30 – 0.60 mét. Cây mọc hoang khắp rừng núi, bụi bờ ở nước ta và một số nước trong vùng Đông Nam Á. Người ta đập nát cành và lá cây này thả xuống nước để duốc cá

    Mướp sát (sơn dương tử)

    Là một loại cây nhỏ, cao từ 4 – 6 mét, mọc hoang ở những vùng ẩm ven biển miền Trung và miền Nam nước ta. Cành thô to, có vỏ xù xì, thân có mủ trắng, hoa trắng, thơm, mọc thành xim. Lá mốc le, tập trung ở đầu cành. Quả hạch, màu đỏ, to bằng trứng gà. Người ta nghiền nát hạt để duốc cá.

    Củ đậu (củ sắng, sắn nước)

    Cây củ đậu là một loại dây leo, có rễ củ hình con quay lớn. Là một loại cây được trồng khắp nơi trong nước, từ đồng bằng cho đến miền núi, để lấy củ ăn. Nhưng lá và hạt có chất độc.
    Người ta giã nát hạt cây củ đậu để duốc cá và trừ sâu bọ.

    Và còn rất nhiều loại cây duốc cá khác tùy theo kinh nghiệm của từng địa phương mà chúng tôi không thể kể hết.
    CÁC CÁCH ĐÁNH BẮT BẰNG LƯỚI
    Đánh bắt tôm cá bằng lưới là một phương pháp đánh bắt có hiệu quả nhất, nhưng không phải lúc nào các bạn cũng có sẵn hoặc có thể chế tạo được những tay lưới có quy cách và kích thước vừa ý. Nhưng nếu được chuẩn bị từ trước, thì các bạn không lo thiếu thốn thực phẩm. Có rất nhiều phương pháp đánh bắt bằng lưới với nhiều kiểu lưới khác nhau, những phương pháp dưới đây giản dị, hiệu quả và may ra có tính khả thi.
    Lưới giăng:
    Là một tay lưới bén (bằng sợi mảnh và có mắt lưới nhỏ). Có thể dài từ vài chục mét cho đến hàng trăm mét, rộng từ 0.4 – 1 mét. Dây viền trên có gắn phao, dây viền dưới gắn chì. Lưới giăng chỉ có hiệu quả khi có mưa lớn, lũ lụt hay thủy triều chênh lệch cao,… Nếu không sau khi thả lưới, các bạn phải khuấy động cho cá hoảng sợ, chạy vọt vào lưới.
    Lưới kéo - Lưới bao
    Gần giống như lưới giăng, nhưng dạo (chiều rộng) cao hơn. Sợi lưới và phao lớn hơn. Chiều dài tùy theo khả năng, nhưng cũng vài chục mét trở lên.
    Người ta thường chờ khi nước thủy triều lên, thì đem lưới ra ven bờ sông, bờ biển,… chọn nơi có cá (bằng kinh nghiệm), rồi bủa lưới bao và kéo dần vào bờ.
    Khi kéo ở những vùng sình lầy, có nhiều loại cá hay trốn dưới bùn, người ta làm thêm những cái túi ở đường viền chì, gọi là lưới túi.

    Trủ - Đáy
    Hai loại hình này giống nhau, nhưng trủ thì nhỏ hơn và chỉ đánh ở suối, mương, lạch,… có nước chảy mạnh, còn đáy thì đánh ở sông.
    May ra thì chúng ta có thể làm được một cái trủ nhỏ, chừng đó cũng đủ cho chúng ta tự túc được thực phẩm. Còn đáy thì xin đừng mơ tới, vì nó đòi hỏi rất nhiều nguyên vật liệu và công sức.
    Các bạn chọn một khúc suối (hay mương, lạch, …) nước chảy thông, thẳng, đáy bằng phẳng. Đóng cừ, bện đăng, chừa một cửa vừa bằng miệng trủ. Khi có biến động thời tiết (lũ lụt, đang nắng lâu mà đổ mưa, đang mưa dầm mà nắng hạn, trời trở gió, …) thì các bạn gắn trủ vào, bảo đảm các bạn sẽ trúng to. Nếu các bạn biết kết hợp trủ với xa và lợp thì… hết biết.

    CÁC CÁCH ĐÁNH BẮT KHÁC
    Te bộ - Nhủi
    Lấy hai cây tre dài khoảng 2 – 3 mét, đóng ghép thành hình chữ X, một đầu dài, một đầu ngắn. Đầu dài có gắn một tấm lưới, hai bàn trượt ở đầu sào và một sợi dây giới hạn độ bẹt của sào. Đầu ngắn dùng để chịu vào người mà đẩy tới. Các bạn nên từ ngoài đẩy thẳng vào bờ hay vào những mương lạch cụt, nơi nghi ngờ có tôm cá ẩn núp. Thường thì cách này chỉ đánh bắt được tôm cá nhỏ, nhưng khá nhiều.

    Kè đá
    Nếu các bạn đang ở dọc theo bờ biển, hãy chọn một vũng nước mà khi thủy triều xuống, sẽ rút cạn hay chỉ còn lại rất ít nước. Các bạn lấy đá làm thành một bờ kè thấp ngăn giữa biển và vũng nước. Khi thủy triều lên tràn ngập, cá sẽ lên theo, khi thủy triều xuống, một số cá sẽ bị kẹt lại.

    Nếu các bạn biết cách thay thế kè đá bằng một giàn đăng hay lưới thì sẽ tuyệt hơn.
    Rập cua – Câu cua
    Các bạn lấy hai thanh tre dài từ 0.7 – 1 mét, ghép chéo nhau thành chữ X, để căng một tấm lưới vuông, có mắt lưới lớn, cạnh khoảng 60 cm. Buộc vật nặng vào thanh tre cho rập dễ chìm. Cột rập bằng một sợi dây nối liền với một cái phao dễ thấy. Cột một miếng mồi lơ lửng giữa khung và lưới. Đem thả rập ở ven bờ có nước sâu khoảng 1 mét (Mồi là những con vật chúng ta tìm thấy trong khu vực như rắn nước, cá,… chặt thành từng khúc)
    Nếu có khả năng, các bạn nên làm khoảng 10 cái rập để thả dọc theo bờ sông, lạch, đầm,… nước lợ. Khi đi thăm, các bạn cầm theo cái sào móc, móc vào dây phao kéo lên. Cua rất ham mồi, khi kéo lên khỏi mặt nước mới chịu buông ra, nhưng lúc đó lại rớt xuống lưới.

    Giản dị nhất là các bạn buộc mồi vào một cái cần dài khoảng 1.5 – 2 mét (không rập, không lưỡi). Đem cắm những nơi cua thường lui tới. Khi đi thăm, các bạn cầm theo một cái vợt cán dài. Các bạn dỡ nhè nhẹ cần câu lên, nếu thấy hơi nặng thì phải chuẩn bị. Khi mồi lên gần tới mặt nước, nếu thấy cua bám theo thì nhanh tay dùng vợt xúc ngay, vì nếu kéo lên khỏi mặt nước, hoặc thấy bóng dáng của bạn, cua sẽ buông mồi và lặn ngay.
    Rập chim
    Đây là một phương pháp đánh bắt khá hiệu quả đối với các loại chim và một số thú nhỏ. Trước tiên, các bạn phải có hai tấm lưới, tùy theo khả năng và các loại chim các bạn dự tính đánh bắt (chim nhỏ thì mắt lưới nhỏ và kích thước lưới cũng nhỏ. Chim lớn thì mắt lưới lớn và kích thước cũng lớn hơn). Các bạn có thể làm những tấm lưới dài từ 5 – 15 mét, rộng từ 1 - 2.5 mét. Trên và dưới chân lưới cặp dây viền thật chắc. Hai đầu mỗi tấm lưới buộc hai cây sào nhỏ cao bằng chiều cao của lưới. Trên đầu sào xa thì buộc dây ốc, dài gấp rưỡi cây sào. Trên đầu sào gần thì buộc dây lèo (dây giựt), dài bằng 3 – 5 lần cây sào. Dưới mỗi chân sào đều có một vòng dây để tròng vào cọc.
    Cách cài đặt
    Các bạn trải lưới dài ra, đầu lưới này úp lên đầu lưới kia khoảng 10 – 30 cm. Kéo căng lưới đóng cọc 4 góc của 4 chân sào. Kéo hết tầm dây ốc, đóng cọc thẳng hàng với 2 cọc của chân sào (những người có kinh nghiệm, người ta đóng chệch vào trong độ 1 tấc). Mở lưới ra và kéo 2 sợi dây giựt về phía định làm thum (chòi) ẩn nấp (xem hình minh họa)

    Kỹ thuật đánh rập
    Nếu các bạn đánh chim đi ăn, thì cần có một vài con mồi cột sẵn ở trong lưới. Nhưng nếu đánh chim đi uống nước, nhất là tháng khô hạn, thì có thể không cần. Khi chim đổ xuống lưới, tùy theo kinh nghiệm và sự phán đoán của bạn để giựt khi chúng còn chưa chạm đất hay đã đậu rồi. Khi giựt, làm sao cho hai tay lưới gần như úp lại cùng một lúc để chim không thoát được.
    Đâm cá bằng chỉa
    Nếu chưa bao giờ sử dụng chỉa để đâm cá, chắc chắn các bạn sẽ đâm trượt. Đó là do hình ảnh của con cá khi đi qua nước đã bị khúc xạ, làm cho các bạn thấy hình như xa hơn, trong khi con cá ở gần bạn hơn một chút. Cho nên khi đâm, các bạn đừng phóng ngọn lao thẳng vào hình ảnh mà bạn thấy, mà phóng chệch về phía trong bạn một tí.

    Giựt bằng thòng lọng
    Các bạn có thể dùng một sợi dây nhỏ, chắc, làm thành một cái thòng lọng, cột một đầu vào cành cây (như cần câu). Với những cử động nhẹ nhàng, các bạn có thể giựt một số loài bò sát như: thằn lằn, cắc ké, rắn,… thậm chí cả cá bống kèo, bống sao,…

    Bẫy nhông (giông)
    Là một loài bò sát rất phổ biến, chúng sống ở khắp nơi, ở những **n cát ở ven biển, đồng cỏ, rừng chồi, trảng trống,… nhưng chúng không sống trong rừng rậm. Đây là một loài bò sát rất dễ đánh bắt và cho thịt rất ngon.
    Các bạn cắt một số ống trúc hay vật liệu hình ống, rộng độ 3 – 4 cm, dài độ 4 – 5 cm (nếu không có, các bạn có thể cuộn bằng giấy cứng, da, nhựa dẻo, nhôm, thiếc, …) rồi làm một số bẫy như hình minh họa. Đem cắm trước các hang của nhông, các bạn sẽ có một nguồn thực phẩm dồi dào.

    Dùng mủ hay nhựa cây
    Các bạn có thể dùng mủ hay nhựa của cây da, mít, mù u, cồng cộng,… nấu lại với nhau, đem bôi lên những cành cây mà chim thường về kiếm ăn. Bị dính mủ, chim sẽ giẫy giụa. Nhưng càng giẫy giụa thì càng bị dính và rơi xuống. Các bạn chỉ việc lượm.

    Và còn rất nhiều phương pháp đánh bắt khác nhau, tùy theo từng vùng, từng loại thú. Mà trong một chương mục, chúng tôi không thể trình bày hết được. Nhưng nếu các bạn nắm bắt được những phương pháp cơ bản đã đề cập tới trong chương này. Thì chúng tôi tin rằng: các bạn có thể sinh tồn
     
  7. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    23. Nấu nướng

    LÀM SẠCH

    Chim, thú, cá... sau khi đã đánh bắt được, các bạn phải biết cách làm cho sạch trước khi nấu nướng. Các bạn đừng bắt chước theo tài liệu hay cung cách của người nước ngoài; con gì cũng lột da. Đó là do khẩu vị của họ (vì họ ít ăn da) và cũng một phần do họ không biết cách làm sạch lông hay vảy. Các bạn hãy tìm hỏi một người Việt Nam sành ăn xem, nếu như heo rừng, kỳ đà, rắn, nhím, gà, vịt... mà lột da xem họ có chịu không? Hoặc nướng hay chiên xù mà đánh vảy thì những tay đầu bếp nông thôn sẽ nghĩ thế nào? Chúng ta có khẩu vị cũng như cách làm riêng của chúng ta. Hơn nữa trong vùng hoang dã, đánh bắt được một con thú đã khó khăn mà các bạn lột bỏ da thì quá uổng phí (trừ phi các bạn cần tấm da để dùng vào chuyện khác)

    Làm sạch các loại chim, gia cầm

    Các loại chim ăn hạt, trái cây và côn trùng, thì có thể nhổ lông khi còn sống hay đã chết, sau đó thui qua lửa ngọn cho vàng rồi mới mổ
    Những loại chim ăn cá, bơi lặn, săn mồi, gà vịt... thì trụng nước sôi rồi mới nhổ lông
    (nếu cần, có thể thui lại trên lửa ngọn)
    Khi mổ phải cẩn thận, đừng làm vấy dơ bẩn, phải rửa lại bằng nước lạnh, thịt sẽ có mùi tanh làm mất ngon.

    THÚ

    Trừ các loại lớn cần phải lột da, còn các thú vừa và nhỏ đều có thể làm sạnh bằng những phương pháp dưới đây:

    Thui: Các loại thú lớn và vừa như heo rừng, mển, nai... hay các looài thú nhỏ như chuột, chồn, nhím... hoặc các loài bò sát có vảy da như rắn, kỳ đà... đều có thể thui qua lửa ngọn cho lông cháy xém rồi cạo sạch.

    Vùi tro:
    - Các loài thú và bò sát nhỏ như sóc, chuột, kỳ nhông, rắn mối... thì nên vùi dưới lớp tro nóng chừng một vài phút là có thể đem ra cạo sạch được.

    Trụng nước nóng:
    - Có thể áp dụng cho bất cứ loại thú nào nhưng phải biết cách pha nước cho vừa đủ nóng (cỡ khoảng 60 hay 65 độ) Nếu nguội quá thì cạo không ra. nếu nóng quá, sẽ bị “sát” cạo cũng hết ra luôn.
    Pha nước xong, ngâm con thú trong nước nóng độ 2-3 phút rồi dùng tay nhổ thử. Nếu lông tróc dễ dàng là có thể đem ra cạo nhanh tay cho sạch (nếu bạn đang trụng nước đang sôi, bảo đảm các bạn chỉ còn cách duy nhất là lột da mới sạch, vì lông đã bị “sát”). Sau khi cạo sạch, các bạn nên thui lại bằng lửa ngọn cho vàng, vừa sạch lông còn sót, vừa thơm ngon hơn.

    Trụng nước sôi:
    - Rắn, rùa, kỳ đà, kỳ tôm... thì phải trụng nước thật sôi mới có thể cạo sạch được lớp vảy bên ngoài. Ếch ***, chàng hiu, ểnh ương... cũng phải trụng nước thật sôi thì mới cạo sạch được lớp nhớt (nếu không muốn lột da)

    Lột da:
    - Như đã nói trên lột da là phương pháp “xưa” rồi. Ngày nay, ngay cả rắn, ếch... mà người ta còn để cả da, vì nó rất ngon. Tuy nhiên, nếu các bạn không biết cách làm nào khác, thì lột da là phương pháp dễ làm và nhanh nhất. Hoặc các bạn muốn có tấm da để dùng vào các việc khác
    Muốn lột da, các bạn hãy làm theo các công đoạn sau:
    * Nếu con vật còn sống, hãy cắt cổ để lấy tiết.
    * Lột da ngay sau khi con vật vừa chết, để càng lâu, càng khó lột.
    * Treo hai chân sau của con vật lên cao vừa tầm tay.
    * Khứa vòng quanh hai khủy chân sau và hai kheo chân trước. Rạch theo lằn chấm rồi lột da từ trên (hai chân sau) xuống.
    Cắt bỏ bộ sinh dục (Đừng để cho lông dính vào thịt)

    Các loại thú nhỏ như sóc, chuột... chỉ cần cắt một lần ngắn ở trên lưng. Dùng ngón tay trỏ và giữa của hai bàn tay, kéo ngược ra hai đầu.
    - Muốn lột da ếch, các bạn chặt đầu phía dưới 2 mắt. Rạch một đường trên lưng, ngang eo. Một tay cầm con ếch bằng hai ngón, một tay lột, dễ dàng.
    - Nếu lột da cóc, các bạn đừng lột từ trên xuống như ếch, rất khó lột. Phải bắt đầu từ các ngón chân sau lột ngược lên. Mổ bỏ trứng và lòng ruột (vì rất độc).

    MỔ BỤNG:

    Các loài thú, sau khi đã làm lông hay lột da xong, thì mổ phanh bụng, móc hết ruột gan để riêng ra, phân loại rồi làm sạch. (Cố gắng đừng để làm vấy bẩn thịt, phải rửa lại bằng nước lạnh, thịt sẽ mau hư và mất ngon. Nhưng bộ lòng thì bắt buộc phải rửa)
    Tim thì bổ đôi, rửa sạch máu bầm. Cật bổ đôi, lạn sạch hoi. Gan thì nhẹ tay tách mật ra. Ruột thì xả hết chất bẩn, lộn ra rổ chà cho thật sạch.
    Các bộ phận khác như: Lưỡi thì trụng nước sôi cạo sạch. Óc thì mổ đôi sọ ra để lấy. Mỡ thì thắng để dành ăn hay đốt đèn. Bốn cái “dụms” chân làm sạch, phơi khô để làm lương thực dự trữ. Sừng (nếu có) và xương nếu có thể thì nấu cao hoặc dùng làm các công cụ và vũ khí.
    Chú ý:
    Sau khi vừa bắn hạ thú hay khi vừa giết thịt, hãy cắt bỏ bộ phận sinh dục của con thú đực và các hạch hoi của thú cái (thường nằm hai bên háng của thú). Nếu không, thịt sẽ có mùi hôi rất khó ăn.

    LÀM CÁ:

    Hầu hết các loại cá đều phải phải đánh vảy, chặt bỏ vây, móc mang, mổ bụng bỏ ruột. Nhưng cá chép, cá trôi, cá đối, các loại cá trắng... thì không cần đánh vảy mà chỉ cần mổ bụng và làm sạch là đủ.
    Các loại cá không có vảy như cá trê, cá ngát, lươn... thì trụng nước ấm hay dấm hoặc lăn tro bếp mà “vuột nhớt” rồi rửa sạch.
    Các loại cá còn sống và vùng vẫy nhiều thì đập đầu cho chết rồi mới làm

    LẤY PHI LÊ (FILLET) CÁ

    Các loại cá lớn, cá nhiều xương hay cá có xương cứng... trước khi phơi hay sấy khô, các bạn nên lạn xương để lấy phi lê theo cách dưới đây:
    - Làm sạch cá sau khi cá vừa chết
    - Rửa sạch nhớt, lau khô, để ráo nước.
    - Dùng dao bén (Fillet Knife) lần lượt lạn theo hình mình họa.
    - Xương và đầu còn lại, các bạn có thể nấu canh hay nấu cháo

    CHẾ TẠO BẾP

    Ở những nơi hoang dã, tùy theo địa thế và vật dụng chúng ta có thể tìm thấy được trong vùng, để chế tạo những kiểu bếp giản dị và tiện lợi. Dưới đây là những kiểu bếp để gợi ý:

    NẤU NƯỚNG KHI KHÔNG CÓ SOONG NỒI

    Ở những nơi hoang dã, dù không có nồi niêu, soong, chảo... các bạn vẫn có thể dùng óc sáng tạo và tài tháo vát của mình để có những bữa ăn tươm tất. Chúng tôi xin hướng dẫn các bạn một số kỹ năng để các bạn tham khảo, rồi tùy theo vật liệu có được, các bạn hãy tự xoay sở lấy.

    NẤU CƠM

    Nấu cơm lam:

    Lấy một ống tre lồ ô, bương, mạnh tôn, tre gai... (loại có ống lớn), không quá non hay quá già. Cắt đầu mắt theo 1 trong 3 cách dưới đây:

    Ngâm gạo hay nếp từ 1 đến 2 giờ (nếu là gạo thì ngâm lâu hơn)
    Đổ nếp (hay gạo) vào ống tre (đừng nén chặt)
    Đổ nước vừa síp (nếu là nếp), hoặc ngập một lóng tay (nếu là gạo).
    Nút thật chặt đầu ống tre bằng các loại lá tươi không độc (lá chuối, lá dong, lá nghệ...) hoặc ráp các khớp đầu ống tre lại, rồi dùng dây tươi cột lại cho cứng, bên ngoài đắp đất sét cho dây khỏi cháy

    - Dựng ống tre nghiêng trên đống lửa (nhớ xoay cho đều), đến khi lớp vỏ bên ngoài thật vàng hay cháy xém là được.
    - Chẻ bớt dần lớp vỏ ngoài cho đến khi còn lại một lớp mỏng, cắt ra từng khoanh.
    Mách nước; Các bạn hòa một tí bột ngọt với muối vào trong nước trước khi đổ vào ống tre, như vậy thì cơm ăn rất ngon mà không cần thức ăn.

    Nấu theo kiểu Mã Lai 1:

    Đào một cái hố sâu chừng 30cm, rộng 40cm. Lót đá, sỏi xuống đáy và chung quanh thành hố (1). Đốt lửa cho đến khi đá thật nóng thì lấy hết củi ra, còn lại than hồng. Bỏ túm gạo đã chuẩn bị (như cách nấu cơm đùm), hoặc cá thịt đã gói thật kỹ bằng lá tươi xuống dưới hố (2), phủ lên trên một lớp than rồi lấp đất lại (3). Để như thế chừng vài giờ sau (hoặc khi nào cần) thì bới lên. Cơm và thức ăn vẫn nóng như mới nấu.

    Nấu theo kiểu Mã Lai 2

    Đào một cái hố, lót đá và đất nóng kiểu 1. Lấy hết củi và than ra, lót một lớp lá tươi, để thịt hay cá xuống lớp lá rồi phủ thêm một lớp lá tươi nữa. Cắm một cành cây chính giữa lỗ rồi lấp lại, ém chặt.
    Sau đó thì rút cành cây lên, đổ chừng một chén nước xuống cái lỗ nhỏ đó, lấp lại. Nước xúc tác với đá nóng sẽ bốc hơi thành một loại hơi nóng để làm chín thức ăn. Để chừng vài giờ hoặc khi nào cần ăn thì bới lên.

    Nấu bằng trái dừa:

    - Lấy một trái dừa tươi, vạt bớt một lớp vỏ ngoài, để lại 0.5 đến 1cm bao quanh gáo dừa, cắt 1/2 gáo, phần trên cuống để làm nắp, đổ gạo hay thức ăn vào trong trái dừa, (Gạo cũng phải xử lý như cách nấu cơm lam), đậy nắp lại, dùng chốt nhọn ghim cứng và để vào đống lửa cho đến khi cháy sém là được.

    LÀM THỨC ĂN

    Gà, vịt bao đất sét.

    Gà vịt cắt cổ xong, làm ướt lông (muốn móc ruột hay không cũng được). Đất sét nhào cho dẻo, đắp chung quanh con gà (hay vịt) cho thật kín. Để xuống đất, lấp sơ một lớp cát mỏng. Chất củi đốt cho đến khi đất sét trở nên khô cứng như gạch, khều ra, gỡ từng mảnh đất sét, lông sẽ dính theo, khi xé ăn thì bỏ bộ lòng (nếu ta không làm sạch trước)

    Gà, vịt bao lá sen, đất sét
    Gà, vịt làm sạch, ướp gia vị tùy thích (cơ bản là hành, tỏi, muối, tiêu, đường...) bao lại bằng lá sen (hay lá dong, lá chuối, các loại lá cây không có độc, hoặc lá cây có tinh dầu như cam, chanh, bưởi...) Dùng đất sét dẻo để bọc ở ngoài. Cho vào đống lửa đốt cho đến khi đất sét khô cứng như gạch là đem ra ăn được.

    Ghi chú: Cách bao lá sen, đất sét này cũng có thể dùng cho cá thịt

    Cá, thịt ốp bẹ chuối
    Cá, thịt làm sạch, ướp gia vị tùy thích. Lấy một hay hai bẹ chuối (tùy theo cá hay thịt lớn nhỏ) gập đôi lại, bỏ cá hay thịt vào giữa, dùng dây rừng tươi cột lại (hoặc dùng que tươi ghim lại, bỏ vào đống lửa cho đến khi bẹ chuối cháy xém thì khều ra

    Đổ trứng trong củ hành
    Lấy 1 củ hành tây thật lớn, cắt 1/3 làm nắp, phần còn lại thì khoét rỗng ruột. Đổ trứng vào, đậy “nắp” lại để than hồng một lúc, trứng sẽ chín.

    Nấu canh bằng ống tre
    Lấy một ống tre loại lớn, còn tươi, vạt theo hình minh họa
    Đóng hai cọc cho bằng nhau, gác ống tre lên, đổ nước vào để lấy thăng bằng trước khi nấu.
    Với phương pháp này, chúng ta có thể nấu canh, kho cá, thịt, chiên trứng.

    Bằng đá, gạch
    Các bạn có thể dùng một phiến đá bằng phẳng, một miếng ngói, một cục gạch, một tấm thiếc hay kim loại khác, rửa thật sạch, đặt lên bếp thay thế chảo để chiên trứng, nướng bánh, nướng thịt...

    Dùng giấy bạc kim loại
    Nếu các bạn có loại giấy bạc kim loại này, thì có thể ứng dụng rất đa dạng trong việc nấu nướng. Các bạn có thể chế tạo một vỉ nướng, gói cá hay thịt để nướng (hạn chế tiếp xúc trực tiếp với ngọn lửa làm cháy khét). Có thể dùng lá chuối, lá khoai môn, lá sen... hoặc các loại lá có tinh dầu như chanh, cam, bưởi, sả... để gói lại trước khi bọc giấy bạc kim loại ra ngoài.

    Nồi da xáo thịt
    Lấy loại da thú lớn, mới vừa lột, căng lên một khung cây hình lòng chảo, để thay thế nồi. Cắt thịt bỏ vào trước khi bắc lên bếp. Loại “nồi” này có thể xào nấu như thường, nhưng khi cần có thể ăn luôn “nồi”.
    Khi nấu loại nồi này, các bạn phải nhớ là trong nồi phải luôn luôn có nước, nếu không sẽ thành món “nồi nướng”.

    Sử dụng bao giấy hoặc tờ báo
    Lấy một túi giấy đựng hàng, nhúng nước cho ướt phần đáy.
    Thái thật mỏng thịt ba rọi hay lấy thịt xông khói (Bancon), lót một lớp dưới đáy.
    - Đổ trứng lên lớp thịt đó.
    - Cuốn miệng bao lại, đồng thời **c lổ hay xỏ cây vào làm tay cầm hay treo giá treo.
    - Treo lên đám than hồng (không để cháy thành lửa ngọn) trong khoảng từ 10 - 15 phút.
    - Nhúng nước lại khi bao muốn bắt cháy.

    NƯỚNG

    Khi không có nồi niêu soong chảo, chúng ta còn có thể sử dụng các cách nướng khác nhau như những hình gợi ý dưới đây

    MUỐI

    Là một khoáng chất rất cần thiết cho đời sống của chúng ta, nhưng vì quá quen thuộc đến độ đôi khi chúng ta không nhận thấy sự quan trọng của nó. Thường thì trong các nguồn thực phẩm đã có muối, nhưng không đủ cho nhu cầu cơ thể chúng ta, cho nên trong thức ăn, chúng ta cần tăng cường một lượng muối nhất định. Vì nếu không, cơ thể chúng ta dễ suy kiệt dần.
    Muối cũng rất cần thiết cho việc bảo quản thực phẩm. Trước khi phơi khô cá hay thịt, chúng ta phải ướp muối, muốn muối chua rau cải hay làm mắm, chúng ta cũng cần nhiều muối... Vì thế, nếu trong hành trang của các bạn hay vùng của các bạn ở không có muối thì tình thế khá tồi tệ đấy.
    * Nếu các bạn ở gần bờ biển, thì có thể làm ra muối bằng cách nấu cho nước biển bay hơi, muối sẽ đọng lại.
    * Vào những tháng có nắng gió, các bạn lấy nước biển đổ vào những vật chứa nông và rộng, hoặc các phiến đá lòng chảo, nắng gió sẽ làm cho nước bốc hơi, chỉ còn lại muối. Các bạn nên làm ra thật nhiều muối để dự trữ cho những ngày mưa gió.
    * Trong trường hợp bắt buộc, các bạn có thể đốt tre lồ ô hay một số cây cọ thuộc họ dừa (Palmac), cỏ tranh... rồi lấy tro của nó, hoà với nước, lược các chất dơ, nấu cô lại, ta có một thứ nước lờ lợ. Loại nước này chỉ giúp cho chúng ta cầm cự một thời gian, không thể thay thế muối được.
     
  8. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    24. Bảo quản thực phẩm

    Trong những ngày may mắn, các bạn đánh được rất nhiều chim, thú, cá... Thu nhặt được nhiều rau quả, không thể ăn hết, các bạn phải biết cách bảo quản và dự trữ, để dành cho những ngày mưa gió hay xui xẻo không có gì. Đây là một điều rất quan trọng khi các bạn phải sống nơi hoang dã.

    MUỐI HAY LÀM MẮM

    Thịt:
    - Cắt thịt sống thành từng miếng bằng bàn tay, đem ram hoặc luộc chín. Xong đem ngâm ngập vào nước mắm (nếu có) hay nước muối đun sôi để nguội. Cách này có thể để lâu 1-2 tháng.
    - Cắt thành từng miếng mỏng, xát muối cho thấm rồi đem nhận vào thùng hay hũ, nén cho thật chặt, để nơi thoáng mát, thỉnh thoảng đem phơi nắng, không được để cho nước mưa rơi vào. Cách này giữ được rất lâu.
    - Nếu có mật ong, các bạn ngâm thịt vào trong đó, có thể giữ được 4-5 tháng mà vẫn tươi ngon.

    Cá:
    Cá làm sạch, để ráo nước, xát muối cho thấm rồi đem nhận vào thùng hay hũ, khạp... nén cho thật chặt, để nơi thoáng mát, thỉnh thoảng nên đem ra phơi nắng, tuyệt đối không được để cho nước mưa rơi vào (Muốn lấy nước mắm thì các bạn phải khui một lỗ lù phía dưới đáy. Sau khi tháo ra đổ vào vài lần, các bạn ủ và để ngoài nắng ít nhất là 6 tháng thì nước mắm mới tạm ăn được) (thường thì phải một năm)

    PHƠI KHÔ

    Thịt:
    Thái mỏng, dùng dao to bản hay một miếng gỗ đập dẹp. Ướp muối, đường (nếu có), nước cốt củ riềng (nếu có). Rồi đem phơi trên một tấm phên hay lưới, hoặc treo dài theo những sợi dây. Nếu phơi trên một phiến đá thì phải trở thường xuyên.

    Cá:
    Mổ bụng, làm sạch, lạng phi lê hay banh mỏng, ép dẹp, nhúng nước muối (nếu có) rồi đem phơi trên tấm phên tre hay lưới, hoặc lấy dây hay cây xỏ xâu đem treo hay gác lên giàn, phải nhớ lật trở hàng ngày.


    SẤY KHÔ

    Phương pháp này dành cho những ngày có thời tiết xấu hay các bạn đang ở trong vùng ít khi có nắng.
    Cá hoặc thịt sau khi đã xử lý như cách làm để phơi. Các bạn đan một tấm phên thưa, gác cao trên lửa khoảng 1 mét. Trải thịt hay cá lên trên tấm phên. Đốt lửa cho cháy nho nhỏ suốt ngày đêm (có lửa than càng tốt), thỉnh thoảng nên lật trở cho đến khi khô hẳn.
    Nếu không có vật liệu để đan phên, các bạn có thể dùng tre hay những cành cây nhỏ, dài khoảng 1.5-2 mét, làm thành một cái giàn sấy hình kim tự tháp, trên đó làm những khung ngang để vắt những miếng thịt hay cá.

    HUN KHÓI
    Hun khói lạnh:

    Khói rất hiệu quả trong việc bảo quản thực phẩm (thịt hay cá tươi). Các bạn chọn một vị trí có đất mềm rồi đào một cái rãnh dẫn khói rộng chừng 0.45, dài 2 m, gác qua rãnh vài phiến đá (hay cây tươi) rồi phủ đất. Dựng một khung hình nón cao chừng 1.5 m, chung quanh phủ cành cây và cỏ thật dày. Ở giữa gác những tấm vỉ để đựng thịt hay cá. Đốt lửa đầu miệng rãnh liên tục khoảng 10 giờ là được.

    Hun khói nóng:

    Gọi như thế vì phương pháp này thực phẩm được hun trực tiếp gần ngọn lửa, chủ yếu là sử dụng hơi nóng nhiều hơn. Khi dùng phương pháp này (cũng như các phương pháp sấy khô khác), xin các bạn lưu ý: Không sử dụng những cây củi thuộc họ tùng bách để đốt lửa, vì khói đen sẽ phủ một lớp dày lên thực phẩm, không ăn được.
    Nên sử dụng gỗ của các loại cây hồ đào, anh đào, tần bì, sồi, ổi, bằng lăng, ngành ngạnh... nếu củi quá khô, nên ngâm nước vài giờ trước khi đốt (để tạo khói). Thực phẩm sau khi hun nóng thì có thể sử dụng trực tiếp mà không cần qua chế biến.
    Để hun khói nóng, các bạn có thể đào một cái hố dưới đất hay sử dụng một cái thùng bằng thiếc theo các hình minh họa bên đây.

    BẢO VỆ THỰC PHẨM

    Thực phẩm sau khi đã xử lý cần tồn trữ, thức ăn còn thừa để dành cho hôm sau... Các bạn phải biết cách bảo vệ cho khỏi bị chuột bọ, côn trùng, thú hoang... làm hỏng hay ăn mất.

    Treo trên cây:
    Ở những vùng có nhiều thú hoang, nhất là gấu, chó rừng... Nếu trời không mưa, các bạn nên bỏ thực phẩm vào trong bao rồi treo lên cao, ngoài tầm với của thú (khoảng 2-3 mét). Dây treo nếu có thể thì nên tẩm dầu hôi hay thuốc muỗi để chống kiến.

    Trường hợp các bạn săn bắt được thú rừng mà chưa kịp ra thịt, thì các bạn cũng nên mổ bụng móc hết lòng ruột rồi cũng treo cao lên.

    Treo giàn khói:
    Đây là một phương pháp rất phổ biến ở nông thôn Việt Nam. Nếu các bạn đã có một chỗ ở và một bếp ăn cố định thì nên lấy dây để xâu những loại thực phẩm đã xử lý (phơi hay sấy khô) treo lên trên giàn khói, sẽ bảo quản được rất lâu mà không sợ bị côn trùng hay thời tiết làm hư hỏng. (Nên xâu qua một tấm thiếc, miếng gỗ, vỏ cây... để chống chuột bọ).

    Chôn dưới đất:
    Những thực phẩm có nguồn gốc thực vật như các loại trái, củ, hạt, rau cải... Các bạn nên đào một cái hố dưới đất, xếp đá chung quanh, bỏ thực phẩm vào giữa. Sau đó dùng rơm rạ, cỏ khô... phủ lên, rồi đắp đất bên ngoài.
    Các bạn cũng có thể tồn trữ các loại thực phẩm khác ở dưới hố đá này, nhưng phải bỏ vào bao hay đồ chứa, rồi dằn đá lớn lên trên (để cho thú không đào được) trước khi lấp đất lại.

    Làm lạnh thực phẩm:
    Nếu ở trong vùng nhiệt đới, gặp lúc thời tiết nóng nực, thức ăn thừa để đến ngày hôm sau rất dễ bị hỏng cho dù các bạn đã hâm kỹ. Các bạn nên làm như sau:
    Đem thực phẩm đựng trong nồi hay bao bì không thấm nước, bỏ xuống một dòng suối có nước nông và chảy yếu, lấy đá lớn lèn chung quanh và dằn đè lên để không bị trôi mất. Nước suối làm cho thức ăn được mát lạnh và không bị hư hỏng. Cách này cũng làm cho kiến không vào thức ăn được.
     
  9. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    25. Nơi trú ẩn

    Nếu ở trong vùng hoang dã mà các bạn có một chỗ trú ẩn tươm tất, có một bếp lửa để sưởi ấm... thì các bạn sẽ thấy yên tâm và thư giãn tinh thần. Nhất là những lúc mưa gió (mà mưa rừng thì thường kéo dài rất lâu) mà các bạn không có một chỗ trú ẩn cho đàng hoàng thì không những dễ bị bệnh mà còn dễ bị hoảng loạn và suy sụp tinh thần. Hoặc giả các bạn ở những vùng có khí hậu đặc biệt như sa mạc hay băng tuyết mà không biết cách làm những nơi trú ẩn cho thích hợp, thì các bạn khó lòng mà tồn tại được.
    Tùy theo điều kiện khí hậu, vật liệu các bạn có sẵn, vật liệu thiên nhiên chung quanh, thời gian chúng ta lưu trú... mà chúng ta kiến tạo một chỗ trú ẩn cho thích hợp.

    CHỔ TRÚ ẨN ĐƠN GIẢN

    Lều trại:

    Nếu các bạn ở trong vùng khí hậu nhiệt đới hay ôn hoà, và có mang theo vải bạt, poncho, võng... để làm trại, thì khá đơn giản để tạo ra một nơi trú ẩn. Lều rất thích hợp cho việc tạm nghỉ qua đêm rồi tiếp tục di chuyển. Tuy nhiên, các bạn muốn dựng một cái lều cho an toàn thì phải lưu ý đến những điều kiện sau:
    - Dựng lều ở nơi đất trống trải, bằng phẳng, không có đá lởm chởm, không có rễ cây lớn.
    - Dựng lều ở gò đất cao hay hơi thoai thoải cho dễ tháo nước
    - Không dựng lều ở chỗ trũng dễ bị ngập úng khi mưa
    - Không dựng lều ở lòng suối cạn, nước lũ về không kịp trở tay.
    - Không dựng lều ở dưới tàn cây cao, rất nguy hiểm khi mưa gió (sét đánh, cành cây gãy rơi xuống... )
    - Không dựng lều nơi có bụi rậm, cỏ cao, rất dễ bị rắn rết
    - Tránh hướng gió thốc vào lều

    Tiêu chuẩn để hình thành một cái lều:

    - Mái lều căng thẳng, không nếp nhăn, để không bị mưa dột
    - Các mối dây buộc chắc chắn và dễ tháo
    - Làm trên một mô đất, nếu không, phải có mương thoát nước.

    Sau đây là hình ảnh một số lều cá nhân cũng tập thể để cho các bạn tham khảo

    Ẩn núp tạm thời
    Trường hợp các bạn không có lều bạt mà trời thì đã tối, các bạn cần phải tìm cho mình một chỗ trú ẩn qua đêm. Các bạn nên tìm chỗ trú ẩn dưới các tàn cây, thân cây đại thụ có những rễ lớn có thể chắn gió, thân cây hay rễ cây lớn đổ ngang, hang đá... hay bẻ gãy một thân cây hoặc dùng dây kéo một tàn cây xuống thấp để che sương gió, các bạn cũng có thể dùng vỏ cây, cành cây, che tạm để qua đêm

    Làm chòi tạm bằng vật liệu thiên nhiên
    Nếu các bạn chỉ ở trong một thời gian ngắn trong mùa khô, thì các bạn có thể dùng những vật liệu nhiên nhiên có sẵn tại chỗ như cây, gỗ, cành lá... để làm thành những cái chòi trú ẩn, giàn chống ẩm hay vách chắn gió... như các hình minh hoạ dưới đây.

    Tuy là chòi đơn giản, nhưng các bạn cũng nên làm ở những nơi cao ráo và thoát nước. Nền lót một lớp lá cây hay cỏ khô ráo. Nếu có một tấm poncho hay nylon thì trải lên để chống hơi ẩm. Ban đêm, nên đốt một đống lửa trước cửa chòi để sưởi ấm, xua đuổi thú dữ, rắn rết, côn trùng... Nhưng phải cẩn thận, dọn sạch lá khô chung quanh, để phòng cháy lan

    Chòi làm bằng cây, dây leo và cỏ mờm

    Nếu các bạn cần cư trú lâu dài ở một vùng thảo nguyên, ít có cây lớn, hoặc những vùng lạnh giá, nhiều gió... các bạn có thể dựng cho mình một cái chòi bằng cây, dây leo và đất mờm (đất ẩm, có cỏ mọc thật dày, rễ cỏ đan vào nhau để giữ đất).
    Muốn thực hiện một cái chòi như thế, các bạn lần lượt tiến hành theo từng bước sau:

    1- Gác giá cây hình tam giác, cao khoảng 3-3,50m, rộng 2,50 - 2,75m
    2- Sắp cây hình nón
    3- Trổ cửa
    4,5,6- Cách tạo cửa
    7- Có thể kéo rộng diện tích (nếu cần)
    8- Bện thêm hàng cây phụ thứ nhất
    9- Cách bện để giữ hàng cây phụ
    10- Bện thêm hàng cây phụ thứ hai
    11- Cách bện vách
    12- Xắn đất mờm
    13- Lấy đất mờm
    14- Đấp đất mờm chung quanh

    Lều du mục
    Làm bằng những cây sào dài khoảng 3,5 mét với vải bạt hay da thú may lại. Lều ấm cúng, thích hợp với cuộc sống di chuyển của những người dân du mục vì dựng và tháo dỡ rất nhanh

    CHÒI VÀ LỀU SÀN

    Chọn một chòm cây gần nhau (1), hoặc một cây to có nhiều nhánh lớn (mọc cạnh bìa rừng càng tốt). Làm một cái thang để lên xuống thao tác cho dễ dàng (2).
    Lựa những nách nhánh thích hợp để gác đà đỡ, sau đó các bạn ghép sàn (3)
    Khi đã có sàn rồi thì phần còn lại khá đơn giản. Nếu có vải bạt, thì các bạn căng lên như cách dựng lều thông thường, bằng không thì chúng ta làm khung và lợp lá (4)
    Ở chòi sàn vừa tránh được thú dữ, không bị hơi ẩm của đất, vừa quan sát được rất xa.

    CÁC CÁCH TẠO NƠI TRÚ ẨN KHÁC

    Trường hợp các bạn có lều vải, nhưng trong vùng các bạn đang ở thì toàn là lau sậy hay không có cây đủ lớn để có thể dựng được lều, các bạn túm nhiều cây nhỏ vào nhau để làm khung. Sau đó, các bạn lấy tấm bạt trùm lên, dằn kín chung quanh bằng các vật nặng. Như vậy các bạn cũng có một nơi trú ẩn khá tươm tất.

    Nếu ở những vùng chỉ toàn là đá, các bạn có thể chất đá cao lên theo hình móng ngựa, trùm bạt lên, chừa cửa ra vào, rồi dằn đá chung quanh. Như vậy là các bạn đã có một nơi trú ẩn chịu được mưa gió

    DỰNG NHÀ

    Trong trường hợp các bạn dự kiến phải trụ lại một thời gian dài thì chòi không phải là nơi trú ẩn lý tưởng. Các bạn cần phải tìm kiếm vật liệu để dựng lên một căn nhà, ít nữa thì cũng là một túp lều, để có thể chống lại với những mưa nắng, nóng lạnh, gió bão... của thời tiết thất thường nơi vùng hoang dã
    Những vật liệu thông thường mà chúng ta có thể tìm thấy là cây, tre, gỗ, tranh, lá, cỏ, vỏ cây, dây rừng... Tuy đa dạng, nhưng cũng đòi hỏi một số kỹ năng cũng như hiểu biết, thì mới có thể dựng được một túp lều vững chãi.

    DỰNG NHÀ BẰNG CÂY LÁ

    Muốn dựng một cái nhà bằng cây, mái lợp tranh hoặc lá, chúng ta cần phải tìm cây để làm một bộ khung (sườn) cho thật chắc chắn. Sau đó, tùy theo loại tranh hay lá mà chúng ta định lợp để thả “rui mè” hay “đòn tay” cho thích hợp
    Thí dụ: Những loại lá phải lợp đứng như lá dừa nước, lá kè, lá cọ, lá dừa, lá buông... thì chúng ta cột cây ngang (đòn tay) nhiều.
    Những loại phải lợp ngang như tranh, lá dừa chằm, rơm, cỏ mỹ... thì chúng ta dùng cây đứng (rui) nhiều.
    Để cho mái lều không bị dột hay tuột mất khi lợp bằng tranh, rơm, lá dừa, cỏ... các bạn phải biết cách đánh tranh hoặc chằm lá.

    Đánh tranh
    Đánh tranh tức là dùng hom (là những nan tre nhỏ, dài khoảng 1-1.5 mét và tranh (hay cỏ) gài bện chúng lại với nhau thành từng tấm. Tùy theo vật liệu để đánh, người ta sử dụng 3 loại hom
    1- Hom bốn (có 4 nan tre): dùng đánh rơm, sậy hay loại cỏ có cọng to.
    2- Hom năm (có 5 nan tre): dùng đánh tranh có cọng lớn hay cỏ cọng vừa
    3- Hom sáu (có 6 nan tre): dùng đánh tranh có cọng nhuyễn hay các loại cỏ có cọng nhỏ
    Tùy theo từng loại hom, mỗi loại có độ mềm hay cứng khác nhau (thí dụ: hom bốn thì to và cứng hơn hom năm...) nhưng cách đánh thì khá giống nhau
    - Hom bốn có 1 cặp và 2 hom lẻ
    - Hom năm có 2 cặp và 1 hom lẻ
    - Hom 6 có 3 cặp

    Dưới đây là cách đánh hom sáu (dễ và thông dụng nhất):
    Hom sáu có 3 cặp, khi cài mợt nắm tranh vào, thấy cặp hom nào đang đi lên, thì các bạn tiếp tục kéo lên. Cặp nào đang đi xuống thì tục tiếp đè xuống

    Chằm lá:
    Nếu chúng ta dùng lá dừa rời để lợp thì phải biết cách chằm chúng lại với nhau
    Dùng một sống lá dừa hay một cây cứng để làm đén gánh. Banh lá dừa ra. Bẻ khoảng 1/4 lá dừa (phía cuống) vắt qua sống lá rồi lấy một cọng lạt chằm lại.

    Lợp mái
    Khi lợp, các bạn phải lợp từ dưới lên trên, lớp trên phải phủ dài qua lớp dưới. Lợp bằng lá thì để nguyên phiếu hay nguyên tàu mà lợp. Các loại đã đánh hay chằm thành tấm thì lợp nhanh và kín đáo hơn. Tranh rơm hay cỏ, nếu không biết cách đánh thì có thể bó thành từng lọn nhỏ để lợp như các hình minh họa dưới đây

    NHÀ BẰNG CÂY GỖ

    Ở trong vùng có nhiều cây gỗ thẳng và đều nhau, những người khai hoang, với dụng cụ thô sơ, họ đã dựng lên những căn nhà bằng cây gỗ đơn giản, chắc chắn, và ấm cúng. Để làm được một căn nhà như vậy chỉ cần:
    - Đắp một cái nền có diện tích lớn hơn căn nhà dự kiến một chút.
    - Hạ một số cây đủ dùng, cắt đúng cỡ mà chúng ta muốn sử dụng.
    - Khoét ngàm hai đầu
    - Chồng cao theo ý muốn. Trổ cửa
    - Làm mái rồi lợp bằng vỏ cây (bu lô) hay tranh lá
    - Dùng rêu, cỏ, vỏ cây (tràm). .. để xảm kín những chỗ hở của vách (nhất là ở những chỗ hở của vách (nhất là ở những vùng lạnh giá)
    Nếu khéo tay, các bạn sẽ có một căn nhà độc đáo và lý tưởng

    CÁC KIỂU NHÀ CỦA THỔ DÂN

    Từ ngàn xưa, những thổ dân ở các vùng xa xôi hẻo lánh, ít giao tiếp với nền văn minh, nhưng họ đã biết tận dụng cây cỏ và những vật liệu thiên nhiên chung quanh, để tạo cho mình những nơi cư trú ấm cúng, an toàn... và một đôi khi rất thẩm mỹ

    NGÔI NHÀ BĂNG GIÁ
    Trong thế giới băng giá của người Eskimo, vì chung quanh họ chỉ có băng tuyết, cho nên họ xây dựng những ngôi nhà bằng băng tuyết gọi là IGLOO
    Muốn xây dựng lột igloo, phải có tuyết đóng từng khối dài khoảng 90 cm, rộng khoảng 50-60 cm, dày chừng 15 cm. Một igloo đạt tiêu chuẩn chỉ rộng khoảng 3 mét.

    Trước tiên, các bạn xếp lớp băng đầu tiên theo hình vòng tròn có đường kính là 3 mét theo hình trôn ốc, lớp thứ hai đường kính nhỏ hơn một chút, lớp thứ ba nhỏ hơn lớp thứ hai và cứ tiếp tục như thế (Vì vậy mà igoloo có hình vòm). Cuối cùng, dùng một tảng băng hình nêm để khóa vòm. Khoan một lỗ nhỏ trên vòm để thoát khí.

    Khi cần nơi trú ẩn tạm, người Eskimo củng làm những đường rãnh, bên trên gác những tảng băng để làm mái. Hoặc làm lều tuyết hay vòm tuyết để tạm trú qua bên khi đi săn hay những lúc cần

    TRÚ ẨN TRONG HANG ĐỘNG

    Hang động là một nơi trú ẩn rất lý tưởng. Từ ngàn xưa, ông cha chúng ta đã lấy hang động làm nơi trú ngụ của gia đình hay bộ tộc. Hang động cho chúng ta một nơi ở, một nhiệt độ ổn định và một chỗ khá an toàn.

    Tìm Hang Động
    * Nếu đã tìm thấy một hang động, thì có khả năng tìm thấy những hang động khác.
    * Quan sát những nơi bầy dơi bay ra lúc chập tối và bay về lúc hừng sáng.
    * Quan sát sự xuất hiện và biến mất của dòng suối
    * Dọc theo bờ biển có vách đá nhô cao lên, cũng có thể hình thành do tác động của của sóng
    * Ở những vùng nhiệt đới mưa nhiều, nếu thấy có đá vôi lộ thiên thì có thể có hang động gần đó. Kiểm tra các khe nứt, vì đó có thể là lối vào hang động. Để ý đến hơi nước hay khí lạnh tỏa ra từ các đường nứt hay khe đá.
    * Theo dấu của loài dế màu nâu vàng (dế thầy chùa) thường dẫn đến một hang động hay là khe nứt dẫn đến hang động.

    Đốt lửa trong hang động
    - Không đốt lửa trong những hang động nhỏ, các bạn sẽ bị ngộp do mất oxy
    - Không nhóm lửa những nơi có phân dơi, vì sẽ gây cháy, nổ...
    - Nếu đốt lửa trước cửa hang động, phải cẩn thận để không bị cháy lan

    NHỮNG NGUY HIỂM TRONG HANG ĐỘNG

    Đề phòng những nguy hiểm thông thường

    * Khi vào hang động, cẩn thận với những cư dân thường trú sẵn trong hang như: rắn chuông, dơi... một số động vật và côn trùng khác.
    * Gặp những hang động sâu, đừng mạo hiểm đi quá xa, vì các bạn có thể gặp kẽ nứt, vực sâu, dốc trơn trợt, đá lở, lạc lối...
    * Cẩn thận vì hang động rất dễ thiếu oxy (Để xác định, các bạn quan sát ngọn đèn ***g hay ngọn đèn cầy, nếu thấy có bắt đầu lụn dần và dường như cố bùng lên, hoặc các bạn cảm thấy khó thở... thì lập tức rời khỏi hang ngay, vì hang đang thiếu dưỡng khí)
    * Đi lại trong hang động, nếu có thể thì nên đội nón cứng, vì không biết các bạn sẽ té hay va đầu vào trần hang bất cứ lúc nào
    * Nhóm lửa ngay phía ngoài lối vào, làm sao vừa sưởi ấm mà không bị khói làm ngộp vì mất oxy
    * Chỗ nằm phải lót các cành cây hay lá, cỏ thật dày để chống ẩm. Tránh các luồng gió trong hang

    Ngập lụt trong hang
    Có thể hang động mà các bạn đang ở là một cái phểu hứng nước. Nếu vừa có một cơn mưa lớn trong vùng, coi chừng một cơn lũ quét sẽ xảy ra trong hang. Hãy tỉnh táo lắng nghe và quan sát các hiện tượng sau:
    - Sự thay đổi cường độ và nhiệt độ của gió
    - Sự dâng cao của nước
    - Tiếng nước chảy trở nên khác thường
    - Nước trở nên **c và nhiều rác hơn
    Hoặc nếu bạn thấy bất cứ một hiện tượng khác thường nào, hãy lập tức rời khỏi hang hay trèo lên cao ngay.

    CƯ DÂN TRONG HANG ĐỘNG
    Hang động được chia làm hai vùng

    1- Vùng tranh tối, tranh sáng (chập choạng)
    Vùng này thường có chồn, chuột, gấu mèo, gấu nhím, chồn hôi, rắn chuông... và một số động vật côn trùng khác. Chúng ở đây quanh năm để tránh thời tiết hay trốn các loài thú ăn thịt khác

    2- Vùng hoàn toàn tối
    Vùng này có một hệ động vật rất đặc biệt. Những động vật này gồm có hai nhóm
    Nhóm sống suốt đời trong hang: Gồm cá mù, sa giông (cá ***) tôm hang, ốc sên hang... Những động vật này không có mắt hay mắt bị thoái hóa còn rất nhỏ
    Nhóm vừa sống trong hang vừa sống ngoài hang: Gồm thằn lằn, nhện, ruồi nhuế, muỗi...
    Dơi: Cư dân nổi tiếng nhất trong hang động là dơi. Loài có vú duy nhất biết bay. Dơi có loài ăn côn trùng, có loài ăn trái cây, có loài vừa ăn côn trùng vừa ăn trái cây. Đặc biệt có loài dơi quỷ (Vampire Bat) chuyên hút máu gia súc và các động vật có kích thước trung bình. Dơi thường không tấn công người, nhưng có thể tông vào bạn trong những hành lang hẹp. Phân dơi rất dễ cháy nổ như thuốc ***, phải cẩn thận.
     
  10. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    26. Dây, lạt, nút dây

    Dây

    Dây là một vật dụng không thể thiếu trong cuộc sống của con người, nhất là khi chúng ta đang ở những vùng hoang dã
    Dây dùng để cột trong việc dựng nhà, chòi trú ẩn... dùng để làm bẩy, dây câu, trói thú rừng, đan lưới, khâu vá áo quần, treo thức ăn, dụng cụ... chế tạo công cụ, vụ khí...
    Trong trường hợp các bạn không có trong tay các loại dây công nghiệp, hư dây cước, sợi nylon, dây thừng... thì các bạn biết tận dụng những cây rừng chung quanh ta để chế tạo thành dây. Có những loại dây rừng chúng ta có thể sử dụng ngay mà không cần phải qua công đoạn chế tác.Nhưng cũng có những loại chúng ta phải tốn rất nhiều công sức mới có được sợi dây vừa ý, đa dụng

    CÁC LOẠI DÂY RỪNG SỬ DỤNG NGAY

    Dây chặc chìu:

    Còn gọi là dây dây chiều, u trặc trìu... là một loại dây leo nhỏ, thường dài từ 3 -5 mét. Thân có lông tơ, nhiều nhánh phụ. Lá dai, nhám hình bầu dục, mép có răng cưa. Hoa trắng, mọc thành chùy ở nách hay ở ngọn. Dây chiều mọc hoang ở rừng núi và đồng bằng. Người ta dùng thân của dây chiều để làm dây, rất dẽo và bền...

    Dây mấu:

    Còn gọi là dây sót, gắm gấm lót... Mọc hoang khắp các vùng rừng núi ở nước ta.
    Là một loại dây mọc leo trên các thân cây to, dài hơn 10 mét. Thân cây rất nhiều mấu. Lá hình trứng, mọc đối. Hoa đực mọc thành chùm, phân nhánh một hoặc hai lần. Quả có phủ một lớp như sáp, ăn được... Đây là một loại dây leo to, có thể dùng để cột bè, làm cầu, dựng nhà, bó củi, kéo cây gỗ...

    Dây choại (dây chạy):

    Là một loại dây leo, mọc bò trên các cây cao. Thân nhỏ, dài và rất bền chắc, có thể dùng để đan giỏ, bện đăng... Lá nhỏ, dài, hình mác, gân giữa nỗi rõ, hợp thành lá kép lông chim lớn
    Thường mọc nơi ẩm ướt, có bóng mát, dọc theo các mương nước hoặc mọc phủ kín thân cây khác. Chồi non ăn được.

    Dây xanh:
    Là loại dây leo nhỏ, màu xanh toàn thân, thường bò dưới đất. Mọc ở những vùng rừng chồi thấp, rừng tái sinh, trảng trống, đất hoang... có thể dài từ 5 - 10 mét, ít phân nhánh. Lá hình mác, mọc đối... Loại dây này nếu cột ở những nơi không bị tác động của mưa nắng thì có thể chịu được 5-10 năm.

    Ngoài ra, còn vô số dây rừng có thể sử dụng được ngay (mà chúng tôi không thể định danh được hay không có tiêu bản trong tay). Tuy nhiên, trước khi dùng, các bạn nên thử nghiệm độ bền chắc của nó

    CÁC LOẠI DÂY CẦN CHẾ TÁC, XỬ LÝ

    Các lại dây mà phải qua công đoạn chế tác, thì khá bền chắc và đa dụng. Tuy nhiên, vì phải làm thủ công, nên mất rất nhiều thời gian và công sức.
    Có rất nhiều loại cây có thể dùng để xe hay bện thành dây, những cây sau đây là một số cây mà chúng ta thường gặp ở Việt Nam và một số nước trong vùng nhiệt đới

    Cây da:
    Là một loại dây leo ký sinh khổng lồ, bám vào một cây ký chủ và thòng rất nhiều rể phụ để tự đứng vững.
    Người ta lột vỏ những rễ phụ của cây đa (dài khoảng 5-6 m) Sau khi đã cạo sạch lớp da ngoài, đem phơi nơi thoáng mát. Khi dùng thì xe hay bện lại, chúng ta sẽ có những sợi dây rất bền chắc, có thể làm dây cung hay ná mà không sợ đứt.

    Cây gai:

    Là loại cây nhỏ (cở ngón tay, dạng roi). Cao từ 1 -2 mét. Lá lớn, mọc so le, hình tim, mép có răng cưa, mặt dưới có nhiều lông trắng, nhám...
    Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi trong nước. Lá dùng để làm bánh ít lá d gai. Sợi rất bền chắc, dùng để dệt, may vá, đan lưới.
    Muốn có sợi, các bạn chặt những cây già, bỏ phần ngọn còn non; tước lấy vỏ, cạo sạch tinh của da, còn lại là những sơi nhỏ màu trắng, rất bền chắc, có thể sử dụng ngay

    Dứa bà và Dứa dại:
    Hai cây này tuy khác nhau hoàn toàn, nhưng công thức chế sợi lại giống nhau
    Dứa bà:

    còn gọi là Thùa, dứa Mỹ, lưỡi lê... có nguồn gốc Châu Mỹ. Được trồng ở Việt Nam để làm cảnh, sau đó phát triển lan rộng và mọc hoang khắp nơi. Dứa bà có lá màu lam mộc, hình kiếm dài, dày, mọng nước, đầu lá có gai to, nhọn, cứng, gai mép lá có màu đen bóng như sừng
    Dứa dại:

    Là một cây nhỏ phân nhánh ở ngọn. Cao khoảng 3-4 mét. Lá mọc đầu nhánh thành chùm, hình bản dài 1-2 mét, gân giữa và mép có gai sắc. Quả là một khối hình trứng, với những quả hạch có góc cạnh, rất cứng
    Cây mọc hoang khắp nơi, đôi khi được trồng để làm hàng rào
    Muốn có sợi, chúng ta cắt lá bó lại thành từng bó, đem ngâm nước (nước mặn càng tốt), độ 10 ngày thì vớt lên. Dùng dao hay mảnh sành nạo bỏ phần mềm, còn lại là sợi, đem phơi khô, sẽ cho chúng ta những sợi khá chắc, có thể dùng để cột, đan võng, bện dây thừng
    Cây dừa:
    Như chúng tôi đã đề cặp tới trong chương “NƯỚC”. Dừa là loại cây rất phổ biến ở các nước và hải đảo vùng nhiệt đới, người ta tách xơ của vỏ quả dừa ra từng múi nhỏ, đập nát, gỡ ra từng sợi rồi xe bện lại, các bạn sẽ có một loại dây rất chắc chắn.
    Ngoài ra, các bạn có thể dùng cây đay, cây yucca (ngọc giá) cây nettle (tầm ma). .. để lấy sợi bện thành dây.
    Các bạn cũng có thể dùng gân thú, da thú cắt thành từng sợi nhỏ dài, phơi khô. Hoặc dùng tơ tằm, xe lại thành sợi

    LẠT

    Được làm từ một số cây thuộc loại tre nữa như; tre, tre mỡ, lồ ô, nứa, giang, trúc, vầu... hoặc từ một số dây mây như, mây song (song bột, song đá, song cát), mây nước, mây rã...
    Người ta dùng lạt trong các công việc như: lợp nhà, bó cây, bó củi, dựng nhà, cột vách... Nếu chẻ hơi dày, cũng có thể đan rổ rá và một số dụng cụ. Nếu chẻ to bản, có thể đan thành tấm phên, liếp... dùng để che chắn

    Chẻ lạt:
    Chẻ lạt là cả một nghệ thuật, khi các bạn chẻ lạt ngắn (20- 30 cm) thì khá dễ, nhưng nếu chẻ lạt dài mà không biết điều chỉnh lưỡi dao thì sẽ lải (sợi lạt đầu dày đầu mỏng) không sử dụng được
    Chúng ta cắt thân tre, nứa hay mây... ra từng đoạn (dài ngắn tùy theo nhu cầu), rồi chẻ đôi dần dần (chẻ làm 2, rồi làm 4, làm 8, làm 16... ) cho đến khi có độ mỏng vừa ý. Khi chẻ, chú ý quan sát, nếu đường chẻ chia đều hai bên bằng nhau thì các bạn cứ đẩy lưỡi dao tới rồi lách lưỡi dao bên phải một cái, rồi bên trái một cái.

    Nhưng nếu đường chẻ có chiều hướng nghiêng qua một bên, thì các bạn lách lưỡi dao về phía mỏng, đồng thời uốn cong phần dày theo chiều ngược lại, cho đến khi thấy đường chẻ trở lại ngay chính giữa thì thôi

    XE DÂY
    Khi cần có một sợi dây đủ dài hay đủ lớn để sử dụng, các bạn cần phải biết các xe bện, từ những sợi ngắn thành sợi dài, hoặc từ những sợi dài thành sợi lớn.
    Xe những sợi ngắn thành sợi dài
    Các bạn chập đôi sợi dây lại cho so le, rồi xe bằng tay hay bằng chân theo hình minh họa.

    Cách xe: Giữ đầu A cho chặt, xe đầu B và B cùng chiều cho thật săn rồi mới buông đầu A ra. Lặp lại động tác này nhiều lần cho đến khi hết dây thì chập thêm dây ở sợi nào hết trước, rồi xe tiếp cho đến khi vừa đủ.
    Đây là phương pháp thủ công, làm rất lâu, các bạn cần kiên nhẫn.

    Bện thành dây lớn
    Nếu các bạn đã có vài sợi muốn bện lại thành một dây lớn thì phương pháp thủ công trên khó mà hoàn thành một. Các bạn cần phải làm một cái bàn quay hay một cái xa theo hình minh họa dưới đây:

    BỆN QUAY TAY TAM GIÁC

    NÚT DÂY

    Ở nơi hoang dã, dây là một vật dụng rất thiết yếu, vì thế các bạn cần phải biết một số núi dây cơ bản để đem áp dụng cụ, tóm lưỡi câu...
    Có thể các bạn cho là không cần thiết, nhưng nếu buộc dây không đúng cách thì hao tốn dây mà không chắc chắn, đến khi cần tháo thì tháo không ra... Trong phần này, chúng tôi chỉ trình bày một số nút dây thật cần thiết mà thôi. (Muốn tìm hiểu thêm về NÚT DÂY, xin các bạn tìm đọc cuốn “CẨM NANG TỔNG HỢP VỀ KỶ NĂNG HOẠT ĐỘNG THANH THIẾU NIÊN” của Phạm Văn Nhân)

    NÚT DẸP

    Dùng để nối hai đầu dây có tiết diện bằng nhau, cột gói hàng, khóa băng cứu thương

    NÚT NỐI CÂU

    Dùng để nối hai đầu dây trơn láng, có tiết diện không bằng nhau hoặc bằng nhau

    NÚT THÒNG LỌNG

    Dùng để buộc đầu dây vào một vật, có thể nới rộng hay thu hẹp tùy ý. Dùng để đánh bẫy. Để bắt súc vật...

    NÚT THUYỀN CHÀI

    Dùng để cột một đầu dây vào một cọc. Dùng để cột thuyền. Để căng một sợi dây

    NÚT GHẾ ĐƠN

    * Làm một vòng tròn cố định ở đầu một sợi dây
    * Dùng đưa người từ dưới thấp lên.
    * Ném cho người sắp chìm dưới nước để kéo họ vào
    * Làm dây an toàn khi leo núi hay làm việc trên cao
    * Kéo những nạn nhân trong hoả hoạn ra khỏi nơi nguy hiểm

    Cách làm núi Ghế đơn bằng một tay
    Trường hợp khi một tay phải giữ thăng bằng, chỉ còn một tay tự do, các bạn phải làm nút Ghế đơn vòng quanh bụng bằng một tay để những người khác kéo ta lên

    CÁC LOẠI NÚT TÓM LƯỠI CÂU

    NÚT LẠT LỒNG

    Ghép 2 cây lại với nhau bằng tre, mây, sống lá…

    NÚT LẠT VẶN

    Khóa gài đầu dây lạt sau khi cột lại như gói bánh, lợp nhà…

    NÚT ĐẦU RUỒI

    Nối 2 đầu lạt tre, mây, sống lá cứng…

    NÚT NGẠNH TRÊ ĐƠN

    NÚT NGẠNH TRÊ KÉP

    Dùng để nối 2 đầu lạt tre, mây, sống lá mềm…

    NÚT KÉO GỖ

    - Dùng để kéo vật dài và nặng. Dùng để căng võng
    - Khởi đầu của nút tháp cây dấu nhân.
    Nguyên tắc của các loại nút kéo gỗ là đầu dây, ghìm lúc nào cũng phải căng thẳng nếu không dây sẽ bị một và nên bẻ góc để dây được xiết cứng hơn

    NÚT CARICK

    CÁC LOẠI NÚT THOÁT THÂN

    - Dùng thu hồi sợi dây mà chúng ta đã sử dụng để đu từ trên cao xuống
    - Không để cho những người truy đuổi chúng ta theo đó mà xuống
    Khi thu hồi dây các bạn nên lưu ý: Kiểu I và II sau khi đu xuống, các bạn cầm sợi dây giũ mạnh vài cái, dây sẽ tuột ra. Kiểu III và IV sau khi đu xuống bằng dây A, khi xuống đến nơi thì cầm dây B kéo mạnh để thu hồi sợi dây.
    Ghi nhớ: Khi đu xuống các bạn cầm dây A. Nếu cầm nhầm qua dây B là nguy hiểm đến tính mạng, vì dây tuột ra và các bạn sẽ rơi tự do
    CHÚ Ý: Các bạn có thể sử dụng NÚT KÉO GỖ để làm nút thoát thân, nhưng phải để đầu dây sống

    CÁC NÚT THÁP CÂY
    NÚT NÍN NỐI

    dùng để nối hai cây cột hay hai cây sào dài bằng các loại dây

    NÚT NÍN THÁP NGANG

    Dùng để tháp hình chữ thập hai cây gỗ tre... bằng lạt, mây, hay dây rừng

    NÚT THÁP THẲNG

    NÚT THÁP CHỮ THẬP

    Công dụng; Dùng để tháp ngang hai cây gỗ lớn vào với nhau trong công tác làm cầu, làm nhà, thủ công trại... (nhớ là khởi đầu và kết thúc bằng nút Thuyền chài)

    NÚT THÁP CHÉO CHỮ X

    Dùng trong việc dựng nhà, là cầu, thủ công tiện nghi…

    GHÉP SONG SONG & GHÉP BA

    Công dụng: Tăng cường sức chịu lực của cây, dùng để nối dài, tháp cao... dựng nhà, dựng cầu, dựng cột cờ...

    GHÉP CHỤM BA

    Công dụng: Chụm đầu ba cây lại thành một hình tháp

    NÚT CHẦU (TẾT) ĐẦU DÂY

    Công dụng: Bện dây thừng lại cho khỏi bị bung ra
    Lưu ý: Nên làm trên một mặt phẳng, sau khi làm xong để dây được đều đặn

    NÚT CHẦU NỐI

    Dùng để nối hai đầu dây mà không có nút gồ lên làm vướng
     
  11. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    27. Tổ chức cuộc sống nơi hoang dã

    Khi các bạn rơi vào bất cứ một trường hợp nào mà phải trụ lại rất lâu trong vùng hoang dã, các bạn không thể thụ động bó gối đếm thời gian chầm chậm trôi qua. Sự thụ động đó cũng sẽ chầm chậm bào mòn thể xác và tinh thần của các bạn. Các bạn phải biết cách tổ chức cho mình một cuộc sống tốt đẹp. Biết dùng sức khỏe, nghị lực và thời gian để phục vụ cho những nhu cầu và tiện nghi của chính mình. Như thế thì thời gian sẽ qua mau và sự sinh tồn lại gia tăng. Các bạn sẽ tìm thấy sự thú vị và ý nghĩa của cuộc sống

    THUẦN DƯỠNG THÚ HOANG

    Trong cuộc sống nơi hoang dã, thuần dưỡng thú hoang là một việc làm làm rất cần thiết. Một số thú, vừa là bạn bè của chúng ta vừa giúp cho chúng ta thư giãn, bớt cô đơn (điều mà người sống nơi hoang dã sợ nhất), vừa có việc làm để bớt suy nghĩ, lo lắng, sợ hãi... hơn nữa, chúng ta còn có một số động vật có thể giúp cho chúng ta chủ động được nguồn thực phẩm.
    Căn cứ vào các di vật khảo cổ, việc thuần dưỡng thú hoang đã được người tiền sử thực hiện cách đây tối thiểu là 12.000 năm, vào thời mà con người thuần dưỡng đầu tiên. Một số chó sói bạo dạn đến gần nơi con người sinh sống, ăn những thức ăn thừa rồi ở lại với người. Đó là giai đoạn thuần hóa. Để thuần dưỡng, con người giữ lại những chú sói con hay sủa để nuôi (sói hoang chỉ tru mà rất ít sủa). Như thế, cổ nhân của chúng ta đã vô tình thực hiện việc chọn lọc di truyền một loài vật.
    Khi con người bắt đầu làm nông nghiệp cách đây khoảng 9.000 năm, quyền lực của con người đối với thú càng ngày càng tăng. Đầu tiên, từ hai loài thú hoang nào đó, giống cừu và dê được hình thành; sau đó đến loài bò rừng oroc và lợn lòi (tổ tiên của bò và lợn nhà ngày nay). Kế tiếp là lừa, lạc đà, ngựa, ngỗng, gà... Cuối thời đại đồ đá mới, những người nông dân ở Trung Đông, châu Âu, châu Á, châu Mỹ đã thuần dưỡng phần lớn gia súc, gia cầm như chúng ta hiện này.

    CHỌN THÚ ĐỂ THUẦN DUỠNG

    Ngày xưa, người tiền sử phải thuần dưỡng một lòai vật trong nhiều thế kỷ. Ngày nay, các nhà khoa học mong muốn rút ngắn thời gian lại chỉ còn vài năm. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã nghiên cứu, phác họa được đặc điểm tiêu biểu của một loài có thể đưa vào chăn nuôi được như sau:
    * Có một cuộc sống tập quần: Một loài vật mà chỉ biết sống đơn độc, bảo vệ lãnh thổ, không chấp nhận sống chung với đồng loại, rất khó phù hợp với việc thuần dưỡng
    * Có hệ thống trật tự bầy đàn: Mối quan hệ giữa các thành viên trong bầy phải được định hình rõ rệt mới có thể nuôi theo đàn được.
    * Chấp nhận ràng buộc: Vật nuôi phải biết chấp nhận cảnh sống ràng buộc bên cạnh những con vật nuôi khác, đặc biệt, phải chấp nhận sự hiện diện của người chăn nuôi.
    Theo những quan sát ban đầu, bò rừng, ngựa hoang, linh dương... là giống thích sống tập quần, tính bầy đàn rất phát triển, dễ thuần dưỡng. Hoẵng có lẽ là con vật khó thuần dưỡng nhất. Sau nhiều năm nuôi dưỡng chăm sóc, vẫn không thay đổi tập tính bao nhiêu. Quá trình thuần dưỡng hươu nai cũng không dễ dàng gì.
    Trong giai đoạn thuần hóa ban đầu, một số hươu trưởng thành chết vì bệnh liệt cơ do quá căng thẳng (stress), hươu cái húc đầu vào hàng rào tự sát... Muốn nuôi dưỡng hươu con, phải cai sữa (cho dù là sữa bình), từ 6 tháng tuổi thì chúng mới không sợ người.
    Ngoài ra, muốn thuần dưỡng thú hoang, các bạn cũng cần nắm bắt được một số tập tính và am tường về loại thức ăn thích hợp của từng loài thú. Những chim thú mới đánh bắt nơi hoang dã về, các bạn nhốt lại, cho ăn uống vừa đủ, nhưng hạn chế tối đa sự tiếp xúc gần giữa bạn và thú (nên xuất hiện xa xa, đủ để làm cho con thú thấy nhưng không gây ra sự sợ hãi). Hãy lén quan sát, khi thấy thú hết thức ăn thì bạn xuất hiện mang theo thức ăn và nước uống (nhất là nước uống). Dần dần, khi con thú tăng dần sự xuất hiện của bạn cho đến khi con thú không còn sợ hãi nữa...
    Nếu có thể, các bạn nên đào ao thả cá. Những ngày may mắn đánh bắt được nhiều cá, các bạn thả nuôi để dành. Tuy nhiên, vì là cá hoang dã chưa qua giai đoạn thuần hóa, cho nên các bạn phải làm đăng chận cao lên. Nếu không, khi gặp thời tiết thích hợp, nó sẽ trườn lên bờ mà đi hết.
    Ở Việt Nam, nhiều người đã thuần hóa được nhiều thú hoang có kinh tế cao như hươu sao, nai... nuôi dưỡng được một số thú khác như cá sấu, trăn, rắn... để làm kinh tế và nhiều chim thú lớn nhỏ khác nhau, nhưng chủ yếu là giải trí hơn là kinh tế.

    LÀM VƯỜN

    Tổ tiên của chúng ta chuyển từ thực phẩm bấp bênh do săn bắn hái lượm sang thực phẩm ổn định do chăn nuôi và trồng trọt cách đây rất lâu, cho thấy thực phẩm có từ chăn nuôi và trồng trọt rất hiệu quả. Nhưng do các bạn không có hạt giống, phải dùng những cây hoang dại để trồng, hoặc do các bạn chưa có kinh nghiệm về nông nghiệp cho nên trong giai đoạn khai phá, các bạn có thể vất vả mà thu hoạch lại khiêm tốn. Xin đừng chán nản, cứ bắt đầu lại sau sau mỗi lần thất bại, cứ mỗi lần như thế các bạn lại học thêm một số kinh nghiệm. Ngoài các cây để làm thực phẩm, các bạn cũng nên trồng một số hoa cảnh, nó sẽ nâng đỡ cho tinh thần của các bạn rất nhiều.
    Như những người nông dân Việt Nam thường nói: nghề nông có 4 khâu quan trọng, đó là: nước, phân, cần, giống

    Nước: Nếu nơi bạn đang ở mà không có nước hoặc nước rất khan hiếm, thì xin đừng mơ tưởng đến chuyện trồng trọt, vì đây là một khâu quan trọng nhất. Nước không những cần có đủ mà phải có quanh năm, nhất là vào mùa khô
    Các bạn cũng phải biết loại cây nào cần nhiều nước hoặc thậm chí có thể sống ở dưới nước (lúa, rau muống, rau ngỗ, dừa nước...) loại nào cần tưới nhiều nhưng không thể ngập nước (bắp, đậu, rau cải...) và thời điểm nào cần nhiều nước, lúc nào thì cần tháo cạn...

    Phân: Gồm có phân xanh và xác động vật, rong rêu... Các bạn phải ủ các loại cây xanh (tốt nhất là các loại cây thuộc họ đậu) để biến thành phân. Phân người và phân động vật thì phơi khô hay ủ cho hoai rồi mới bón (nếu không cây sẽ chết). Các bạn cũng có thể ngâm xác cá hay thú vật để lấy nước tưới (đậy kín, để xa nơi sinh hoạt, vì rất thối)
    Các bạn phải biết cách bón cũng như thời điểm bón phân như bón lót, tăng cường, bón thúc...

    Cần: Ở đây là siêng năng, cần cù... theo dõi và chăm sóc cây trồng, trút tỉa kinh nghiệm.

    Giống: Trừ khi các bạn đã chuẩn bị trước, bằng không thì các bạn sẽ chọn những cây giống từ thiên nhiên. Cây giống có thể gieo từ hạt, đánh từ cây con, chiết cành, giâm cành, ghép mầm hay cành... Khi chọn giống, các bạn nên chọn những cây khoẻ mạnh, năng suất cao, dễ trông.

    CÁC SINH HOẠT KHÁC
    Ngoài ra, các bạn cũng nên sắp xếp thời gian để viết nhật ký, thám hiểm khám phá khu vực, sưu tầm và chế biến sẳn các loại dược thảo, dược liệu để dành, và nhất là làm thủ công, chế tạo các tiện nghi và vật dụng.

    CHẾ TẠO VẬT DỤNG

    Ở những nơi hoang dã, các bạn phải biết vận dụng trí thông minh và óc sáng tạo của chính mình, để tận dụng mọi vật liệu được tìm thấy trong vùng hoặc của chúng ta mang theo, chế tác thành những công cụ và vật dụng thường ngày, phục vụ cho nhu cầu cuộc sống. Trong công việc này, đôi khi chúng ta phải quay trở lại thời kỳ “đồ đá”. Nghĩa là phải biết tước những mảnh đá để làm rìu, dao... Biết dùng xương hay sừng thú làm công cụ, vũ khí... Biết lấy gáo dừa, vỏ ốc, vỏ sò... thay tô, chén, ly tách... Biết nắn đất sét rồi đem nung, biến nó thành nồi niêu, thau chậu, chum, vại... Biết dùng vỏ cây, lá cây, da thú, chằm kết thành nón mũ, thành giày dép, thành áo quần.. v.v và v.v
    Nếu tháo vát, các bạn sẽ biến nơi hoang dã thành chỗ cư trú tiện nghi và thú vị, các bạn sẽ bận bịu suốt ngày, không còn thì giờ để buồn rầu, lo nghĩ. Bằng ngược lại, các bạn sẽ có những ngày thê lương buồn thảm. Cuộc sống kéo dài trong thiếu thốn lạnh lẽo, như thế chắc chắn các bạn không thể nào trụ được lâu. Các bạn hãy nhớ: không có ai có thể giúp được trong lúc này, chúng ta chỉ có thể đứng lên trên chính đôi bàn chân của chúng ta. Vươn lên với nghị lực của chính mình, bằng cách làm cho cuộc sống chúng ta tiện nghi và thoải mái trong việc chế tạocác vật dụng thường ngày, trong việc săn tìm thực phẩm, dọn dẹp và trang trí chỗ ở với niềm tin là sẽ có ngày, căn chòi của bạn được đón tiếp những người cứu hộ, và nó sẽ là niềm kiêu hãnh của các bạn...
    Hãy vươn lên trên hoang dã, nếu không hoang dã sẽ nuốt chửng các bạn
    Sau đây là một số vật dụng mà các bạn cần chế tạo để phục vụ trong sinh hoạt

    TÚI ĐEO LƯNG

    Bằng bao vải hay túi không thấm nước.
    Đây là một cách giản dị và dễ dàng nhất. Các bạn lấy một cái túi bằng vải, nylon hay các vật liệu khác. Lấy sợi dây dài khoảng 1 mét. Cột miệng bao bằng “nút quai chèo” giữa sợi dây, các bạn cột vào hai góc của đáy bao (điều chỉnh sao cho vừa đeo). Các bạn đã có một túi đeo lưng, dễ dàng trong khi di chuyển.

    Túi đeo lưng bằng quần

    Các bạn lấy một cái quần bằng vải chắc (quần jean càng tốt). Túm hai ống quần lại để thừa một đoạn dây, bẻ gập lên phía trước lưng quần, luồn dây thừa theo đai dây nịt. Bỏ hành trang vào và cột túm lại. Nó sẽ thành cái ba lô (túi đeo lưng)

    Túi đeo hông bằng áo gió, áo mưa

    Loại áo nầy nhất thiết phải có mũ trùm liền áo. Các bạn trải áo ra, bỏ một số vật dụng cần thiết vào chỗ ngực áo. Gấp mũ trùm xuống đậy gọn vật dụng. Gấp vạt áo lên. Cột tay áo quanh bụng. Các bạn đã có một túi đeo hông dùng cho những lần đi khảo sát, săn bắn, thăm bẫy... quanh gần khu vực

    CHẰM ÁO TƠI (ÁO ĐI MƯA)
    Trong các vùng nông thôn Việt Nam trước đây, khi áo mưa bằng nhựa dẻo hay vải không thấm nước chưa có, người ta đã dùng một số lá như lá cọ, kè, buông... để chằm thành những chiếc áo gọi là “áo tơi”. Loại áo này có dạng hình ống, dài ngắn tùy theo sở thích và nhu cầu. Tuy hơi nặng nhưng chống mưa rất tốt.
    Để làm một chiếc áo tơi, sau khi phơi khô và ép lá cho thẳng người ta chằm từ dưới lên như lợp nhà. Trên cùng người ta chằm nhỏ dần lại cho vừa khít vào cổ. Với một chiếc nón lá kèm theo, loại áo tơi này đã hiện diện từ rất xa xưa ở Việt Nam, giúp cho người dân có thể sinh hoạt được trong mưa gió

    SỬ DỤNG VỎ CÂY

    Nếu biết cách lột vỏ cây và chế tạo, tùy theo tính năng của từng loại vỏ cây và sự khéo léo của các bạn, chúng ta có thể làm thành rất nhiều vật dụng đa dạng
    Thông dụng nhất là vỏ cây Phong, cây Bu-Lô (White Birch) là một loại cây có vỏ trắng, bền dẻo... có thể uốn nắn thành nhiều loại vật dụng khác nhau, từ con thuyền cho đến máng, chậu đựng nước (hay đựng bất cứ loại gì) có thể ghép vách, lợp mái, làm giày dép... Lớp màng mỏng bên trong vỏ có thể thay thế tính năng của giấy hay vải.

    Ngoài ra, vỏ cây còn cung cấp cho chúng ta dược liệu, thực phẩm nhiên liệu, sợi...
    Để lột vỏ cây, các bạn làm theo phương pháp dưới đây:

    ĐAN TRE

    Tre là một loại cây phổ biến là đa dụng của người Việt Nam, cũng như một số nước trong vùng nhiệt đới. Có rất nhiều loại tre khác nhau, từ hình dáng cho đến đặc tính cũng như công dụng. Riêng ở Việt Nam, chúng ta thường gặp các loại tre như: tre gai, tre mơn, tre mạnh tôn, tre tằm vông, tre mỡ, tre mỡ, tre la ngà, tre tàu xanh, tre lồ ô, nứa, trúc, hóp, giang, bương, vầu...
    Từ ngàn xưa, cây tre đã đi vào tâm hồn người Việt Nam của chúng ta qua các loại hình nghệ thuật như thi, hoạ, ca nhạc... Phải nói là hình ảnh cây tre và bông lúa đã ăn sâu vào trong tâm trí của mọi người Việt. Cũng từ ngàn xưa, ông cha chúng ta đã biết sử dụng loại cây này với bàn tay khéo léo và óc sáng tạo rất phong phú. Từ cây tre, người ta đã làm nên những căn nhà kiên cố, những chiếc thuyền nan, thuyền thúng vượt biển, những mảnh bè vượt sông, cho đến các vật dụng thông thường trong gia đình như thúng, mủng, rổ rá, nong nia, giàn sàn, cối xay lúa... những tấm cót, phên, liếp, mành, sáo... đăng, nơm, lờ, lớp, oi, giỏ, ***g, sọt, rọ, tra cán cuốc, cán cào... làm vũ khí tấn công và tự vệ v.v...
    Trong cuộc sống nơi hoang dã, các bạn càng cần phải biết cách tận dụng cây tre cũng như một số cây gỗ khác để biến nó thành tiện nghi và vật dụng phục vụ cho cuộc sống của chúng ta. Ở đây, chuíng tôi xin giới thiệu với các bạn một số phương pháp đan bằng tre cơ bản, từ đó tùy theo khả năng, sự khéo léo và nhu cầu, các bạn có thể tạo cho mình những vật dụng thích hợp, xinh xắn.

    CHỌN TRE:
    Nếy chọn tre để đan, nên chọn loại tre mỡ lóng dài, mắt nhỏ, độ già vừa phải, da bóng, là thích hợp nhất

    CHẺ TRE:
    Rã tre: Tùy theo vật dụng định làm mà chúng cưa ra từng đoạn dài ngắn cho thích hợp. Chẻ đoạn tre ra làm bốn, loại bỏ hai mảnh có mắt u nần. Dùng hai mảnh còn lại để chẻ thành nan (nên phơi nắng một lúc cho “dốt dốt” để dễ chẻ)

    Chẻ nan: Đây là khâu quan trọng, nan phải đều, thẳng. Tùy theo vật dụng mà chẻ, có thể chẻ nghiêng, chẻ ngửa, lách con dao làm sao cho khỏi “lãi” (Xin xem phần (DÂY- LẠT - NÚT DÂY)

    Vót nan: Sau khi chẻ đủ số lượng nan cần dùng, các bạn phải vót lại để sửa những khiếm khuyết, làm cho đều đặn những chỗ quá dày hoặc quá lệch, làm sạch các lóng xơ, rồi phơi nắng cho hơi khô (nhưng không để quá dòn)

    ĐAN
    Có nhiều cách đan khác nhau, mỗi cách đòi hỏi phải có một loại nan thích hợp.
    Đan nong một (còn gọi là ***g mốt hay lòn một):
    Cách này không thể đan khít được, dùng để đan những vật dụng có lỗ ô vuông như như: rổ thưa, vỉ phơi bánh tráng, mành chăn vịt...
    Xếp ít nhất là 3 nan hàng dọc để làm chuẩn. Rồi lấy từng nan khác đan xen vào hàng ngang, cứ một nan đè xuống một nan nâng lên xen kẽ nhau. Nắn lại các ô vuông cho đều... Khi xong, nên bẻ dún các đầu nan và gài lại cho khỏi bung.

    Đan nong hai: (Còn gọi là ***g hai lòn hai)
    Cách đan này còn tùy theo độ dày, mỏng, lớn, nhỏ của nan mà cac bạn có thể đan thành những vật dụng thích hợp như rổ, rá, giàn, sàng, cót, phên
    Xếp ít nhất là 6 nan, làm chuẩn ở hàng dọc. Lấy từng nan đan xen vào hàng ngang, cứ 2 nan nâng lên thì 2 nan đè xuống, xen kẽ nhau từng nan một (xem hình)

    Đan nong ba: (còn gọi là ***g ba)
    Dùng đan những vật dụng như thúng, mủng, nong, nia, dè... Xếp ít nhất là 9 nan dọc... Thao tác nhu nong hai, nhưng thay vì nâng lên hai thì các bạn nâng lên ba (xem hình)

    Đan mắt cáo:
    Dùng để đan sọt, bội, ***g, rọ, mành mành...
    1- Đầu tiên, các bạn lấy 2 nan số 1 và 2 bắt chéo chữ X.
    2- Tiếp theo lấy thêm 2 nan số 3 và 4, một nan cài trên, một nan cài dưới chữ X
    3- Nan số 5 cài vào giữa chéo nan số 2, 3 và 4, song song với nan số 1. Nan số 6 cài vào các nan 1, 3, 4 và 5, song song tiếp tục.
    4- Khi thấy đường kính phần đáy đúng theo ý của mình thì dùng 2 sợi dây nan vuông hay tròn rồi bẻ lên thành (hay vách). Kể từ đây, cứ mỗi lần đan thêm một hàng mắt cáo là chúng ta cần nối nan thành một vòng tròn.

    MỞ VÀ RÁP MỘNG - NGÀM - CHỐT

    Trong các công việc xây dựng nhà cửa làm nơi trú ẩn, chế tạo vật dụng... nếu các bạn có một chút khéo léo và kiên nhẫn để mở ráp một số mộng, ngàm, chốt... như hình dưới đây, thì những vật dụng ấy tăng thêm phần chắc chắn và thẩm mỹ

    CÁC VẬT DỤNG LÀM TỪ ĐẤT SÉT

    Nếu trong vùng các bạn đang ở có đất sét, thì các bạn có thể chế tạo ra rất nhiều đồ dùng từ chất liệu ấy.
    Các loại đất sét
    1- Cao lanh: Là loại đất sét trắng tốt, không tạp chất, dùng làm đồ sứ
    2- Đất sét vàng: (từ nhạt đến đậm) dùng làm đồ gốm, chén bát.
    3 Đất sét màu xám tro: dùng làm gạch

    Cách lọc loại bỏ tạp chất:
    Thường thì chúng ta lấy đất sét ở tầng mặt, nên thường lẫn lộn tạp chất, đá, sỏi... Cần phải lược bỏ. Các bạn lần lượt làm theo các công đoạn sau:
    1- Hoà tan đất sét vào trong một chậu nước
    2- Với tạp chất ra ngoài
    3- Đào chỗ đất khô ráo một lỗ vuông, sâu khoảng 50 cm
    4- Đỗ đất vào lỗ, chừa cặn lại
    5- Chờ cho rút hết nước, gạn lớp đất sét mịn đen nhồi

    Cách nhồi đất sét
    Lấy một miếng ván gỗ, bỏ đất sét lên rồi nhồi bằng chân hay bằng tay, nếu thấy đất sét quá dẻo (dính vào chân tay) thì cho thêm cát mịn vào. Trường hợp những dụng cụ chế tạo cần phải nung “dã chiến” thì cho thêm tro vào để khỏi bị nứt

    Giữ cho đất sét luôn được dẻo
    1- Đậy đất sét bằng bao bố hay giẻ ướt
    2- Vẩy nước mỗi ngày
    3- Nếu số lượng ít, có thể cho vào túi nilon rồi cột miệng lại cho kín

    Cách chế tạo vật dụng
    Muốn chế tạo vật dụng bằng đất sét, trước tiên các bạn phải biết cách nắn hình dẹt và hình đũa

    Nắn hình dẹt:
    Lấy một cục đất sét lăn tròn trên một mặt phẳng, rồi dùng lòng bàn tay ấn dẹt xuống, dùng ngón tay sửa độ dày cho đều. Hình dẹt dùng làm các đáy vật dụng

    Nắn hình đũa:
    Lấy một cục đất sét bằng quả quít để trên một mặt phẳng. Dùng hai lòng bàn tay lăn tới, lăn lui cho tới khi thành hình chiếc đũa có đường kính bằng nhau (hơi nhọn hai đầu). Làm thành nhiều chiếc đũa như vậy

    Tạo hình:
    - Để những đoạn đất sét hình đũa lên hình dẹt, uốn theo vòng tròn nối tiếp chồng lên nhau cho cao dần. Nắn làm sao cho hông và miệng rộng ra hay hẹp lại tùy ý
    - Dùng ngón tay trét cho hai mí ráp lại, kể cả bên trong lẫn bên ngoài. Sửa lại hình dáng cho vừa ý.
    - Dùng đất sét loãng thoa áo bên ngoài món đồ cho láng

    Phơi khô:
    Sau khi đã tạo hình xong, các bạn phải đem để nơi thoáng mát vài ngày cho thật khô (đừng phơi nắng, sẽ bị nứt)
    Nung:
    Trong các lò gốm, người ta phải có lò nung và nung chầm chậm nhiều ngày, nhưng ở những nơi hoang dã, các bạn có thể nung theo kiểu “dã chiến” theo cách sau:
    Chất các vật dụng đã tạo hình và phơi khô lên với nhau, chừa khoảng cách để cho lửa và hơi nóng len vào. Chất cành lá, rơm cỏ phủ lên chung quanh rồi đốt cho cháy khoảng một vài giờ cho lửa tàn và nguội thì lấy ra. Lúc này thì đã có thể đem sử dụng (khi nung dã chiến, các bạn phải cho tro vào đất sét trước khi tạo dáng, nếu không sẽ bị nứt bể)
    Tùy theo sự khéo tay của bạn, từ đất sét, chúng ta có thể tạo ra vô số vật dụng như: nồi niêu, thau chậu, bình lọ, chum khạp, chén bát...

    ĐAN LƯỚI
    Lưới là một công cụ đánh bắt chim, thú, cá... rất hiệu quả. Tuy nhiên, để hoàn thành một tấm lưới khả dĩ có thể đánh bắt được, thì cũng không phải dễ dàng gì. Ngay cả lúc trong tay các bạn có đầy đủ nguyên vật liệu... Nếu các bạn không có sự kiên nhẫn cộng với một quyết tâm cao.
    Để đan một tấm lưới, các bạn phải chuẩn bị đầy đủ các dây, nhợ và phải làm một số ghim và cữ (cỡ).

    Ghim:
    Được làm bằng những thanh tre hay gỗ nhỏ có mổ khuyết một đầu theo hình minh hoạ, dùng để vô (quấn) sợi đan lưới. Ghim có nhiều cỡ to, nhỏ, dài, ngắn tùy theo mắt lưới mà chúng ta định đan

    Cữ hay cỡ:
    Là một thanh tre hay gỗ hình chữ nhật, dài khoảng 10-15 cm, ở giữa hơi to. Cữ dùng để canh mắt lưới cho đều nhau, nếu không, mắt lưới sẽ có lỗ to, lỗ nhỏ.

    Khi đan lưới, người ta dùng cữ để canh cho đều và dùng ghim để tạo nên những nút thợ dệt đơn (hay thợ dệt kép) để khóa những mắt lưới. Cái khó nhất là khi gầy đầu, vì lúc đó chưa có thể dùng cữ, nếu không tạo được những lỗ (người gọi là giếng) đều nhau, thì tay lưới có thể bị xộc xệch
     
  12. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    28. Thiên nhiên nguy hiểm

    Thiên nhiên vừa là đồng minh vừa là kẻ thù của chúng ta. Nó ban phát cho chúng ta các vật dụng và phương tiện để sinh tồn, đồng thời cũng cung cấp vô vàn thiên địch có thể giết chết chúng ta, hoặc làm cho chúng ta bị tổn thương, bệnh hoạn. Mà nơi hoang dã, nếu bị tổn thương hay bệnh hoạn thì thật là thê thảm. Nó làm cho các bạn suy kiệt tinh thần và ý chí phấn đấu, khi đó, khả năng tồn tại của các bạn thật là mong manh. Luật lệ của Thiên Nhiên rất khắc nghiệt, nếu không am hiểu, các bạn sẽ tự kết án tử hình.
    Kẻ thù của các bạn trong thiên nhiên thường đến từ thực vật, động vật, khí độc, nước độc, thời tiết...

    NGUY HIỂM TỪ THỰC VẬT

    Trong lịch sử của loài người, đã ghi nhận rất nhiều vụ án do đầu độc, mà hầu hết, chất độc thường đến từ thực vật.
    Những cây có chất độc thì rất nhiều, chúng tôi không thể nào liệt kê hết. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập tới những cây độc mà có dạng như cây ăn trái, ăn lá, rễ, củ... để ăn hay để nấu uống thay trà hoặc làm gia vị... mà các bạn có thể bị lầm. Hoặc những cây các bạn cần tránh xa như: Mắt mèo, cây Sơn... Còn các loại cây khác thì chắn chắn các bạn không dại dột gì mà ăn thử khi chưa biết rõ về nó.
    Ngoài những cây duốc cá và nấm độc mà chúng tôi đã trình bày ở phần trước, còn có những cây độc sau đây:

    Cây lá ngón

    Còn gọi là thuốc rút ruột, hoàng đằng, đoạn trường thảo... Thuộc họ Mã tiền (Loganiaccae)
    Được coi là cây độc nhất nước ta, người ta cho rằng chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người.
    Là một loại cây mọc leo khá phổ biến ở miền rừng núi Việt Nam. Thân cây có khía. Lá mọc đối, hình trứng, đầu nhọn, mép nguyên, nhẵn bóng. Hoa mọc thành xim đầu cành hay kẽ lá. Cánh hoa màu vàng. Quả là một nang, hình thon, dài, màu nâu. (Xin đừng nhầm với cây hoa chè vằng, có hoa màu trắng. Quả hình cầu. Thuộc họ Nhài (Oleaceae)).

    Hồi núi:

    Còn gọi là đại hồi núi. Thuộc họ hồi (Illiciaceae)

    Hồi núi là một cây cao 8-15 m. Mọc hoang khắp vùng rừng núi ở trong nước. (Rất giống cây đại hồi mà chúng ta thường dùng để làm gia vị, cho nên phải lưu ý để tránh nhầm lẫn, vì cây hồi núi có độc). Hồi núi có hoa màu hồng rất đẹp. Quả hình na, hoa, đầu có mỏ hẹp, dài, và cong lên như hình lưỡi liềm. Lá và quả có tinh dầu, mùi vừa giống đại hồi, vừa giống tiêu.

    Tỏi độc:

    Thuộc họ hành tỏi (Liliaceae). Là một cây mọc hoang trong những vùng ôn đới lạnh, tuy ở Việt Nam không có, nhưng chúng tôi cũng đưa ra để cho các bạn tham khảo.

    Tỏi độc là một loại cỏ sống lâu năm, có một dò (củ) to mẫm. Từ dò mọc lên cán với 3-4 hoa loe thành hình chuông, màu tím hồng nhạt rất đẹp, Quả là một nang to 3 ngăn, trong chứa nhiều hạt. Lá to dài, đầu lá hẹp, rụi tàn vào mùa nắng, không có dấu vết gì của cây nữa cho đến mùa thu tới, lại thấy hoa từ dưới đất xuất hiện.
    Toàn bộ cây đều có độc, người và gia súc ăn phải sẽ chết.

    Trẩu:

    Còn gọi là cây Dầu Sơn, Ngô đồng, Thiên niên đồng, Mộc du thụ. Thuộc họ thầu dầu (Euphorbiaccae)
    Trẩu là một cây to, cao từ 8m trở lên,, thân nhẳng. Cây mọc hoang và cũng được trồng khắp nơi trong nước. Lá đa dạng nhưng có đặc điểm chung: ở gốc phiến lá và kẽ thùy bao giờ cũng có 2 tuyến đỏ nổi rõ. Hoa màu trắng, đốm tía. Quả hình trứng màu lục, cấu tạo bởi 3 mảnh vỏ. Lá và hạt đều có saponozit độc

    Hoàng nàn:

    Còn gọi là Vỏ Dãn. Thuộc họ Mã Tiền (Loganiaccae)
    Là một dây leo mọc hoang ở các vùng rừng núi miền Bắc nước ta. Cành gầy, nhẵn, có những móc mọc đối ở cành non. Thân có vỏ xám với những đám màu vàng đỏ. Lá mọc đối, hơi bầu dục. Quả hình cầu, vỏ ngoài cứng, trong chứa nhiều hạt hình khuy áo, rất giống hạt mã tiền. Vỏ và hạt hoàng nan rất độc.

    Mã tiền
    Còn gọi là Củ chi. Thuộc họ Mã tiền (Loganiacae)
    Mọc hoang rất nhiều ở miền Nam nước ta. Là một cây nhỏ, vỏ xám, cây non có gai. Lá mọc đối, phiến lá hình bầu dục. Hoa nhỏ, màu hồng, họp thành xim thành tán. Quả mọng hình cầu, to bằng quả cam, có chứa cơm màu trắng và nhiều hạt hình khuy áo.
    Một số mã tiền được khai thác ở miền Bắc nước ta là dây leo, có đường kính thân 10-15 cm, chiều dài có thể 30-40 mét. Mã tiền rất độc khi dùng với liều cao, rất dễ tử vong khi ngộ độc.

    Cây sừng dê
    Còn gọi là Cồng cộng, Sừng Bò... Thuộc họ Trúc Đào (Apocynaccae).
    Là một cây nhỏ, cao từ 3-5 mét.Cây mọc hoang rất phổ biến ở Việt Nam. Toàn thân và lá khi bẻ có mủ màu trắng sữa. Lá mọc đối, hơi giống hình thìa, tràng hoa hình phễu rộng, xẻ 5 cánh màu vàng, đầu cánh hẹp lại thành hình sợi. Quả khô gồm 2 đại dính vào nhau chứa nhiều hạt có cuống và chùm lông mịn dài.
    Toàn thân cây sừng dê đều có chất độc, nhất là hạt. Người ta còn dùng cây sừng dê để chế thuốc tẩm độc tên dùng trong săn bắn.
    Cây Thông Thiên

    Còn gọi là Hoàng giáp trúc đào. Thuộc họ Trúc Đào (Apocynaccae)
    Cây được trồng làm cảnh và mọc hoang (do trồng rồi bỏ) tại nhiều nơi ở các tỉnh Việt Nam do có hoa màu vàng rất đẹp.
    Toàn thân cây thông thiên rất độc, nhất là hạt, người ta ghiền nát hạt để làm thuốc trừ sâu bọ.

    Hành biển:

    Scilla Maritima. Thuộc họ Hành Tỏi (Liliaccea).
    Hành biển là cây mọc hoang tại những bãi cát quanh vùng biển Địa Trung Hải và những nước ở Bắc Phi... Việt Nam đã di thực và trồng một số nơi trong nước. Cây có một dò rất lớn, có thể nặng từ 3-8 kg. Vào mùa Xuân có lá hình mác, cuối mùa Hạ, lá khô và xuất hiện cán hoa dài mang nhiều hoa nhỏ màu trắng hay xanh lục.
    Hành biển rất độc, người ta dùng nước sắc để diệt chuột và sâu bọ.

    Cà độc dược:

    Còn gọi là Cà duợc, Mạn đà la (Thuộc họ Cà (Solannaceae)
    Nước ta có 3 dạng cà độc dược
    1- Hoa trắng, thân xanh, cành xanh
    2- Hoa đốm tím, cành và thân tím
    3 - Lai hai dạng trên.
    Các dạng cây trên đều là những cây nhỏ, mọc hằng năm, cao từ 1-2 mét. Mọc hoang và được trồng làm cảnh khắp nơi trong nước.
    Cà độc dược thuộc loại thuốc độc bảng A, nhưng nếu dùng với liều khống chế, có thể chữa ho hen, say sóng, đắp ngoài mụt nhọt...

    Cây mù mắt

    Là một cây thuộc loại thân thảo, cao khoảng 0,5 m. Thuộc họ Lộ Biển (Lobeliaceae)
    Mọc hoang và được trồng nhiều ở miền Bắc nước ta. Lá hình mác nhọn, mép có răng cưa. Hoa mọc ở kẽ lá, 4 lá dài, 5 cánh hoa màu trắng. Quả nang, có hai ô đựng nhiều hạt nhỏ.
    Toàn thân cây có nhựa mủ độc, vào mắt có thể làm mù mắt, nếu nếm vào có cảm giác nóng bỏng.

    Cây Ô dầu:

    Còn gọi là Củ Gấu Tàu; Củ Ấu Tàu. Thuộc họ Mao Lương (Ranunculaccae)
    Cây mọc hoang ở các vùng núi cao biên giới miền Bắc nước ta. Là một loại cây thân thảo. Cao 0,6-1 mét. Thân mọc thẳng đứng, có lông. Lá hình mắt chim, chia thành ba thùy, có răng cưa ở nữa trên. Hoa lớn màu xanh tím, mọc thành chùm dài 5-15 cm. Quả có 5 đại, mỏng như giấy, hạt có vẩy ở trên mặt.
    Người ta thường thái mỏng, ngâm rượu dùng xoa bóp đau nhức, sai khớp, dập gãy chân tay. Người ta còn dùng tẩm độc đầu các mũi tên để săn bắn.

    NHỮNG CÂY ĐỘC KHÁC

    Còn vô số cây cỏ có mang độc chất, mà khi dùng làm thực phẩm, thì các bạn có thể vong mạng, nhưng chúng tôi không thể kể hết vì không có tiêu bản, cũng như không đủ khả năng. Cho nên các bạn cần phải thật thận trọng khi dùng cây cỏ làm thực phẩm. Tuy nhiên, có nhiều cây không cần ăn mà chỉ cần va chạm, hay bị dính mủ, thì các bạn cũng bị tổn thương, tiêu biểu cho những loại đó là:

    Cây mắt mèo:

    tên khoa học Mucuna Pruriens Papilionaecca. Thuộc họ Đậu (Fabaceac)
    Là một loại dây leo hằng niên, mọc ở đất hoang, rừng chồi, trảng cỏ, rừng thưa, rừng tái sinh... ít khi mọc ở rừng rậm... Thân, lá, trái đều có lông tơ. Hoa màu tím thẫm, chùm thòng. Trái hơi cong, khi già có màu nâu đen phủ đầy lông vàng, loại lông này rất ngứa. Khi các bạn vô tình chạm phải hay do gió thổi bay đến, thì ngứa ngáy khó chịu vô cùng, càng gãi càng ngứa. Nếu vào mắt thì có thể bị mù tạm thời.
    Nếu bị dính lông mắt mèo, thì các bạn đừng gãi mà hãy áp dụng một trong những phương pháp sau:
    - Dùng rơm, cỏ khô, giấy... đốt thành ngọn lửa rồi hơ phớt mặt da cho lông mắt mèo bị cháy đi thì đỡ ngứa.
    - Nắm cơm thành vắt (cơm nếp càng tốt) lăn trên chỗ ngứa cho lông mắt mèo dính theo.
    - Dùng băng keo to bản dán áp vào nơi ngứa rồi lột ra, lông mắt mèo sẽ dính theo băng keo.

    Cây sơn:

    Mọc hoang khắng rừng núi và đồng bằng nước ta. Là một loại cây nhỏ, cao từ 2-5 m. khi lá còn non màu tím thẫm. Thân màu xám. Trái hình cầu, màu xám. Những người dị ứng với cây sơn sẽ bị phù mặt và cơ thể khi chạm phải

    Cây hồng thụ

    Mọc hoang ở các những cùng đầm lầy, các vùng cửa sông ngập mặn, ven bờ biển. Thân cây bao phù một lớp phấn trắng, lá dày, cứng. Quả hình cầu, kết thành chùm, hay đơn lẻ. Cây hồng thự có nhựa rất độc, dính vào da sẽ bị phồng dộp, văng vào mắt có thể bị mù.

    NGUY HIỂM TỪ ĐỘNG VẬT

    Khác với thực vật có rất nhiều cây trái mang theo vô số chất độc trong mình. Ít động vật có chất độc khi làm thực phẩm, trừ một vài loại mà chúng ta dễ dàng nhận dạng. Nhưng chúng lại thường chủ động gây hại cho chúng ta, từ loài mãnh thú to lớn tấn công gây thương vong đến các loài có nọc độc gây đau đớn chết chóc hoặc các côn trùng mang theo những mầm bệnh nguy hiểm khôn lường. Vì thế chúng ta cần phải biết một số biện pháp đề phòng cũng như đối phó với chúng.

    CÁC LOÀI MÃNH THÚ

    Ngày nay, nhiều loài mãnh thú đã gần như tuyệt chủng trên hành tinh của chúng ta, nếu còn thì số lượng không đáng kể, tuy nhiên thỉnh thoảng qua các thông tin, chúng ta vẫn còn nghe một số người bị mãnh thú tấn công và thường là tử vong hoặc mang thương tích trầm trọng... Nhưng thường thì chúng không chủ động tấn công chúng ta, trừ trường hợp đang giữ con hoặc bị khiêu khích phải tự vệ, hay quá đói.
    Khi bắt buộc phải đối diện với mãnh thú, điều cốt yếu là bạn đừng bao giờ bỏ chạy, vì tốc độ của bạn khó lòng mà thắng được các loại thú rừng, cho dù đó chỉ là con sói con tầm thường... và khi bỏ chạy, chính các bạn đã kích thích tập tính săn bắt hung hãn của các loài thú. Hãy bình tĩnh đối diện với chúng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và nhìn trừng trừng vào chúng bằng một cặp mắt rực lửa cho đến lúc chúng bỏ đi

    Nếu bị tấn công, cho dù đó là cọp, beo, sư tử, gấu, heo rừng, chó sói... thì con đường sống sót duy nhất của các bạn là chiến đấu và phải chủ động tấn công quyết liệt, dùng bất kỳ vật gì có thể làm vũ khí (cành cây, cục đá...) và cả nắm đấm của các bạn, nhắm thẳng vào tim và yết hầu, nhưng hãy lưu ý là loại vũ khí này, nếu chỉ làm chúng bị thương thì chúng sẽ trở nên hung hãn hơn. Khi chiến đấu quyết liệt, có thể các bạn sẽ bị một số thương tích, nhưng cũng còn hơn là là phải chết.

    Đề phòng thú dữ tấn công:

    Ở những nơi hoang dã, thú rừng thường bị hấp dẫn bởi mùi thức ăn của chúng ta nấu nướng (ở Châu Mỹ, gấu và một số lớn loài thú được bảo vệ nên chúng rất đông đúc và thường lùng sục thức ăn của những người đi cắm trại và đôi khi tấn công họ). Cho nên các bạn không nên nấu nướng, ăn uống gần lều và trên gió. Thực phẩm tồn trữ và dụng cụ nấu nướng, chén dĩa, áo quần dính thức ăn (nhất là cá)... phải được treo cao ở xa lều, dưới gió. Nếu cơ thể của bạn dính mùi cá, thì nên tắm rửa thật sạch. Ban đêm, các bạn nên đốt một đống lửa gần nơi bạn ngủ và giữ cho lửa cháy thành ngọn liên tục.
    Khi cần di chuyển, các bạn nên mang theo lao hay gậy nhọn làm vũ khí, một tay cầm một cây roi mảnh quất vút vút trong không khí để gây ra những tiếng rít xé gió làm cho thú hoảng sợ. Cẩn thận khi di chuyển ở rừng thưa, trảng cỏ, bìa rừng, đường mòn, dọc theo sông suối, nơi lấy nước...

    LOÀI BÒ SÁT

    Rắn và Đẻn:

    Loài bò sát này rất nguy hiểm, vì chúng hiện diện khắp nơi và khó nhận thấy. Chúng lại có nọc độc rất dễ sợ, có thể gây chết người trong một thời gian ngắn. Ngày nay, rắn là một nguy cơ rất lớn cho những người sinh sống trong vùng hoang dã.
    Thật ra trong gần 2.400 loại rắn có mặt trên trái đất, chỉ có 1/6 loài là có nọc độc, và cũng chỉ có một ít trong số đó là có nọc đủ mạnh để gây chết người. Tiêu biểu cho loại này có: hổ mang, rung chuông, chàm quạp, rắn lục...

    Đẻn là một loài thuộc họ Rắn biển (Hydrophidae). Thân mình rất giống rắn nhưng khác là phần đuôi dẹp dần về phía sau như một mái chèo. Trong 15 loài đẻn có mặt tại vùng biển Việt Nam thì hầu hết đều có nọc độc, trong đó có một số loài được coi là cực độc so với rắn trên cạn, nhưng đẻn chỉ cắn người khi cần phải tự vệ... Những loài đẻn chúng ta thường gặp là: đẻn cơm, đẻn mỏ, đẻn vết...

    Do tác hại khác nhau của nọc độc từng loại rắn, cho nên khi một người bị rắn cắn, các bạn hãy cố gắng xác định đó là loài rắn gì? Độc hay không độc? Nếu là rắn độc thì nó thuộc loại nào?

    DỰA VÀO VẾT CẮN

    Rắn độc: rắn độc thường để lại hai vết răng nanh sâu, ít chảy máu nhưng rất đau nhức và sưng tấy, nọc càng ngấm thì càng đau và sưng nhiều, chỗ hai vết nanh bầm tím.

    Rắn không độc: Vết cắn của rắn không độc thì để lại đầu của hai hàm răng, nhưng không thấy dấu của răng nanh, vết cắn chảy máu.

    Một loại rắn độc đều có một cấu trúc răng và móc độc khác nhau, cho nên vết cắn để lại trên mình nạn nhân cũng khác nhau, nếu có kinh nghiệm, dựa vào dấu răng, người ta có thể chẩn đoán loại rắn đã cắn.

    DỰA VÀO ĐỊA THẾ
    Theo tập tính và nơi ở của rắn, chúng ta thường gặp
    Rắn hổ nơi đồi núi, gò đống, bụi rậm, nơi cao ráo... Khi cắn, thường ngóc cao, bành cổ, thở phì phì.
    Rắn mai gầm thường sống nơi ẩm ướt, ban đêm thường kiếm ăn theo bờ ruộng ẩm.
    Rắn lục xanh thường sống nơi bờ cỏ, bụi cây.
    Rắn chàm quạp thường sống ở các vùng đất đỏ, đồn điền cao su, rừng cát ven biển... hay nằm bên lề đường, ban đêm khi gặp người đi ngang thì phóng tới cắn và ngậm rất chặt, phải đá mạnh chân mới văng ra, cắn xong răng còn dính lại. Ban ngày, chàm quạp chỉ cắn khi cần tự vệ, cắn xong là bỏ chạy ngay nên không để lại răng.

    DỰA VÀO TRIỆU CHỨNG CỦA NẠN NHÂN
    Thành phần hóa học của mỗi loại nọc rắn khác nhau, do đó tác động sinh học trên cơ thể nạn nhân cũng khác nhgau.
    Người ta thường phân biệt nọc rắn thành hai nhóm chính

    1-Nhóm độc tố máu (hermorragin): Tác động chủ yếu liên hệ tim mạch, gây phân giải hồng cầu, đông máu và chảy máu, làm co huyết quản, gây trụy tim... Gồm nọc của các loài thuộc họ Rắn lục (viperideae). Rắn rung chuông (crotalidac)

    2- Nhóm độc tố thần kinh (neurotoxin): Tác động chủ yếu liên hệ thần kinh, hô hấp. Gây liệt tay, liệt cơ hoành, cuối cùng ngạt thở và chết... Gồm các loại Rắn biển (hydrophydac) Rắn hổ (elapidac)

    TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG GIỮA HAI NHÓM ĐỘC TỐ

    CẤP CỨU

    Khi bị rắn độc cắn, hãy bình tĩnh, càng ít cử động chổ bị rắn cắn càng tốt. Nếu bị cắn ở chân thì không nên đi lại, ngay cả một bước (nếu điều đó có thể được). Cấp cứu nạn nhân theo trình tự sau:
    1- Đặt đai chỉ huyết (garrot) cách vết cắn 5-10 cm về phía tim. (Để cho máu lưu thông nuôi phần dưới) rồi cột lại.
    2- Tẩy nọc tại chỗ bằng nước xà phòng, nước vôi, nước phèn, nước có chất chua, chất chát, thuốc tím...
    3- Dùng dao nhọn, bén sạch, rạch rộng chỗ 2 vết nanh thành 2 hình chữ thập. Hút máu độc ra ngoài bằng cách nặn tay, dùng ống giác hơi, ống giác cao su, ống tiêm 10cc hoặc dùng miệng (nếu miệng không có vết trầy xướt, sâu răng... )
    Lưu ý: Nếu vết cắn đã trên 30 phút thì không cần hút, vì không ích lợi gì mà đôi khi còn có hại thêm

    Các bạn có thể dùng “cục hút nọc” bào chế từ một miếng sừng hươu nai hầm lâu trong nồi kín, đặt tại vết cắn để trung hòa lượng nọc.
    Tác dụng của nọc rắn nhanh chóng và chỉ xảy ra trong môi trường trung tính hay axit, vô hiệu lực trong môi trường kềm. Do đó các chất sau đây có tác dụng làm hư hủy nọc rắn: Cloramin T, thuốc tím, tanin, saponin, papain (trong mủ đu đủ), bromelin (trong quả dứa) than hoạt tính, dịch tụy tang, nước vôi, nước javel...

    ĐIỀU TRỊ

    Tiêm huyết thanh kháng nọc (nếu có)
    Cho nạn nhân uống rượu hội và viên hội. Rượu hội thì cứ 10-30 phút uống một chung. Viên hội thì viên đầu cho nạn nhân nhai ra xác đắp vào vết cắn và ngày uống 2 lần, mỗi lần 3 viên, liên tiếp trong 3 ngày.
    Vì rượu hội là một bài thuốc rất hiệu nghiệm, chữa được hầu hết các loại nọc rắn, các bạn nên chuẩn bị sẵn trước khi đi thám hiểm hay vào những nơi hoang dã
    Bài thuốc gồm:
    - Ngũ linh chi 20 gr
    - Xuyên bối mẫu 24gr
    - Sinh Nam Tinh 24gr
    - Bạch chỉ 24 gr
    - Quế 24 gr
    - Bạch thược 12 gr
    - Bạch đậu khấu 24 gr
    - Hà thủ ô đỏ 40 gr
    - Thanh Phàn 24gr
    - Bào sơn Giáp 24 gr
    - Hùng Hoàng 40 gr.

    Tất cả các vị thuốc trên, tán nhỏ, ngâm với 1,5 lít rượu 35 độ, trong 10 ngày thì dùng được. Nếu cần gấp thì chưng cách thủy trong 4 giờ.

    Đắp thuốc tại chỗ:
    Dùng các cây cỏ có tanin như: Ổi, Sim, Mua, Lựu, Sung, Trà (chè)

    Làm ấm cơ thể:
    Bằng các loại cây như: Quế, Gừng, Tía tô, Tỏi, Đại hồi, Đinh Hương, É Tía, Lá Lột, Kinh Giới, Trà Đậm.

    Chống co thắt phế quản:
    Dùng các cây như; Cà độc dược, Bối mẫu, Bán hạ, Nam Mộc Hương.

    Chống đau nhức:
    Đắp lại tại chỗ những vị thuốc tươi có chất nhầy như; Bông Bụp; Muồng trâu, Mồng tơi, Bồ ngót, Rau Lang, Nhớt họng gà...

    Chống viêm nhiễm về sau;
    Lá Móng tay, Phèn đen, Vú bò, Xuyên tâm liên, Cam thảo nam, cỏ Lưỡi rắn, Mần trầu, Nghệ, Vòi voi, Sài đất, Đọt sậy.

    Khai thông đường dẫn thoát (gan, mật, ruột)
    Hà thủ ô, Muồng trâu, Đại hoàng, Nghề răm, rau Má, rau Sam, cỏ Tranh, Dứa dại, Bìm bìm, Rau Đắng

    CÁC BÀI THUỐC TRỊ RẮN CẮN
    Bài thuốc số 1
    - 20 gr bù ngót (hoặc rau răm hay cây Kim vàng)
    - 5 gr Phèn chu
    Tất cả bỏ chung giã nhuyễn, vắt nước uống, xác đắp lên vết cắt.

    Bài thuốc số 2:
    - 6-7 lá trầu
    - 1 quả cau
    - 1 chút vôi ăn trầu
    - 1 miếng Quế bằng nửa ngón tay út giã nhuyễn
    Tất cả trộn chung cho véo miệng nhai, nuốt lấy nước cốt. Hoặc giã ra vắt lấy nước uống.
    (Trích trong Dược Lý Trị Liệu của GS Bùi Chí Hiếu)

    Bài thuốc số 3:
    Đào lấy một nắm cỏ cú (cỏ gấu) giã lấy nước hòa với nước trà chanh cho uống. Rất hiệu nghiệm (đây là một trong những bài thuốc) quý trong dân gian)

    Bài thuốc số 4:
    - Hạt hồng bì sấy khô 100gr
    - Hạt hoặc lá vông vang sấy khô 100gr
    - Hoa hoặc lá bông báo sấy khô 100 gr
    Các thứ trên tán thật nhỏ, đóng gói nylon, cứ 25gr một gói, bảo quản nơi khô ráo. Khi dùng thì hoà với 100 ml cồn 75 độ hay rượu 45 độ lắc cho tan thuốc. Dùng bông chấm thuốc bôi đón chận quằng đỏ (do chạy nọc) từ phía trên bôi dồn xoáy trôn ốc đến vết cắn. (không bôi lên vết cắn), cách 10-15 phút bôi một lần. Khi quằng đỏ giảm thì 2-3 giờ bôi một lần.
    Đây là bài thuốc gia truyền của dân tộc Mường. Đã từng ứng dụng nhiều nơi, kể cả trong quân đội, đều có kết quả rất tốt

    Bài thuốc số 5:
    - Hạt đậu nọc (còn gọi là đậu độc, đậu rừng). Mọc hoang ở trong rừng. Tên khoa học chưa được xác định rõ. Thuộc loài Mucuna, họ Đậu (Fabaceae).

    Là một loại dây leo thân gỗ, lá giống như lá sắn dây. Hoa mọc chùm màu tím đen. Trái giống bao đựng kiếng đeo mắt, màu đen, có lông phủ, chứa khoảng 4 hạt to gần bằng hạt mít. Vỏ hạt cứng, bóng có vân loang lổ trông rất đẹp, có một đường sống màu nâu chạy dài trên một nửa mép hạt

    Cách dùng: Khi bị rắn độc cắn, dùng hạt bổ đôi dọc theo đường sống giữa (sau khi đã nặn máu, sát trùng. Lấy nửa hạt đắp mặt trong vào vết cắn băng lại, nếu hết nọc hạt tự bong ra. Sau 10-12 giờ mà vẫn còn sưng thì thay tiếp nửa hạt đậu khác.
    CHÚ Ý: Hạt có chất độc, không được uống.

    THÍCH HUYỆT:
    Trường hợp rắn độc cắn vào bàn tay. Làm cho bàn tay và bàn chân sưng phù, càng to... Hãy dùng kim lớn (kim tam lăng hay kim tiêm lớn bằng thép không rỉ) thích cho dịch độc tiết nhanh ra ngoài, tránh gây hoại tử.
    - Bàn tay sưng phù thì thích vào huyệt Bát tà (bên tay sưng)
    - Bàn chân sưng phù thì thích vào huyệt Bát Phong (bên sưng)
    Vị trí huyệt Bát tà: Ở các khe ngón tay trên chỗ thịt trắng đỏ giao nhau, mỗi tay có 4 huyệt.

    Vị trí huyệt Bát Phong: Ở các khe ngón chân bờ trên chỗ thịt trắng đỏ giao nhau, mỗi chân có 4 huyệt

    Phương pháp thích: Sát trùng kim thích và vùng huyệt. Bàn tay hay bàn chân bên sưng để xuôi. Tay phải cầm kim thích nhanh vào các huyệt định châm, mũi kim hướng lên mu bàn tay hay bàn chân. Tùy theo sưng to hay nhỏ để quyết định thích sâu hay cạn (từ 5-15 mm). Làm cho dịch độc (có thể lẫn cả máu) chảy xuống là được. Sau khi thích xong, dùng tay nhẹ nhàng ép cho dịch chảy xuống. Nếu sau đó, dịch độc tăng làm sưng trở lại thì tiếp tục thích như trên. Một ngày có thể thích 2-3 lần. Sau 1-2 ngày sẽ bớt sưng.
    Khi thích huyệt, đồng thời nên cho uống các bài thuốc giải nọc.
     
  13. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    CÁC MÔN THUỐC NGOẠI KHOA
    * Nếu giết được con rắn, sau khi đã thực hiện các biện pháp cấp cứu, mổ ruột con rắn lấy gan và mật đắp lên vết cắn, sẽ nhanh chóng giảm đau
    * Bắt 7-9 con rệp nuốt sống với nước sôi để nguội, sau 10 phút sẽ giảm đau nhức. Những người đi rừng thường bắt rệp bỏ vào chai nhỏ mang sẵn theo trong mình, nếu bị rắn cắn thì lấy ra uống đồng thời bóp nát vài con rệp bôi vào vết cắn để cấp cứu.
    * Dùng dịch âm đạo của phụ nữ bôi lên (Có thể các bạn sẽ cười nhạo hai cách trên đây, nhưng tác giả đã thấy tận mắt trên 3 người được cứu bằng những phương pháp này)
    * Tìm một trong những cây sau đây, nhai hay giả với muối, vắt lấy nước uống, bã đắp lên vết cắn: Bồ cu vẽ, Bảy lá một hoa, Chua ngút, rễ và lá Đu đủ, Răm nghề, Cát đằng, ban nhật, Ớt...

    ĐỀ PHÒNG RẮN CẮN

    Thông thường thì rắn không chủ động tấn công người, trừ trường hợp phải tự vệ. Rắn hay ẩn núp trong các lùm cây, bụi cỏ, đống lá ủ, trên các cành cây, ven bờ nước... Khi di chuyển trong các khu vực nghi ngờ có rắn, các bạn nên:
    - Cẩn thận xem chỗ mà mình sắp đặt chân xuống
    - Dùng cành cây khua khắng vào bụi rặm trước khi thọc tay chân vào để lấy vật gì hay hái trái cây.
    - Mang giày ống hoặc mặc quần áo rộng, dài, dày...
    - Cẩn thận trước khi mang giày hay mặc quần áo, vì rắn có thể ẩn núp trong đó.
    - Tìm hiểu các tập tính và biết các phân biệt các loại rắn, nhất là rắn độc.
    - Biết các sơ cứu và điều trị khi bị rắn cắn.
    GHI CHÚ:
    Sở dĩ chúng tôi đề cập khá nhiều về mục RẮN CẮN là do ở nơi hoang dã, các bạn dễ bị rắn cắn hơn là bị các loài thú khác tấn công. Khi bị rắn cắn, các bạn cũng rất dễ bị tử vong nếu không biết cách cấp cứu và điều trị. Hiện nay trên thế giới, số người bị rắn cắn hàng năm lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm ngàn người và tỷ lệ tử vong cũng rất cao, trong khi số người bị mãnh thú tấn công không có là bao.
    * Lưu ý: Đa số những người bị rắn không độc cắn đã được “điều trị thành công” bằng các dược thảo gia truyền, do đó có sự ngộ nhận về hiệu lực của thuốc, các bạn nên cẩn thận.

    CÁ SẤU VÀ THẰN LẰN HẠT (Gila monster)
    Trong lớp bò sát, còn có hai loài có thể gây nguy hiểm cho chúng ta là cá sấu và thằn lằn hạt
    Cá Sấu:
    Các loài cá sấu (lớn hay nhỏ) thường sinh sống trong những vùng hoang vu trên thế giới, trong các đầm lầy, các dòng sông... và có một loài sấu rất lớn sống ven bờ biển, hoang đảo. Cá sấu ít khi chủ động tấn công người ở trên cạn, trừ khi bị khiêu khích, nhưng nếu các bạn đang vùng vẫy dưới nước là một chuyện khác, nó sẽ trở thành hung thần.

    Bộ cá sấu (Crocodilians): có 3 họ
    1- Họ cá sấu chính thức (Crocodililidae): có 3 giống là Crocrodylus, Osteolemus và Tomistoma.
    2- Họ mãnh ngạc (Alligatorlidae): gồm 4 giống: Alligator, Caiman, Melanosuchus và Paleososchus)
    3- Họ cá sấu mõm dài (Gavialidae); chỉ có một loài duy nhất sống ở Ấn độ gọi là cá sấu sông Hằng (Gavialis gangeticus)

    Ở Việt Nam các bạn thường gặp 2 loại cá sấu là:
    1- Cá sấu xiêm (Crocodylus siamensi). Là loài sấu nhỏ, dài khoảng 3m, thân màu xám, đầu ngắn và rộng, sống ở nước ngọt.
    2- Cá sấu hoa cà (Crocodylus porosus). Loài cá sấu có thể dài hơn 8m, thân màu vàng có xen lẫn vảy đen, đầu dài và thuôn, sống ở vùng nước mặn, ven biển.
    Ngoài ra, chúng ta còn nhập khẩu của Cuba loài sấu bàn cờ (Crocodylus rhombifer) để nuôi.

    Thằn lằn hạt:
    chỉ thấy ở vùng Nam Mỹ, Trung Mỹ và Mexico. Loài thằn lằn có nọc độc này khi cắn cũng gây chết người như các loài rắn độc. Xử lý cũng như khi bị rắn độc cắn

    LƯU Ý: Các loài bò sát (kể cả những loài có nọc độc) đều ăn được và rất ngon. Tuy nhiên khi làm các bạn cũng nên cẩn thận khi làm thịt. Nên chặt bỏ đầu và lòng ruột, chôn sâu xuống đất để phòng dẫm phải.

    NGUY HIỂM Ở DƯỚI NƯỚC
    Ở dưới nước, ngoài các loại đẻn và một số rắn độc như đã trình bày trên, các bạn còn có thể gặp một số nguy hiểm khác như bị cá sấu, cá mập, cá piranha... tấn công, bị chạm vào xúc tu của các loài sứa làm bỏng rát, liệt cơ... bắt nhầm cá chình hay cá đuối điện bị điện giật, ăn trúng cá nóc hay ốc độc có thể vong mạng... Chúng ta thử điểm qua một số loài có thể gây nguy hiểm cho chúng ta.

    CÁ MẬP:
    Có tới 354 loài cá mập, nhưng trong đó chỉ có chừng 30 loài là thực sự nguy hiểm đối với con người, đứng đầu danh sách này là cá mập trắng, cá mập xanh, cá mập hô, cá mập đầu búa...
    Riêng ở Việt Nam chúng ta có thể gặp một số cá mập ngoài những loài đã kể trên như: Cá mập đen, cá mập bẻo, cá mập kiếm, cá mập giống, cá mập cào, cá mập xà...
    Sỡ dĩ cá mập trở thành “Hung thần biển cả” là vì ngoài tính hung dữ, phàm ăn, sức khỏe... thiên nhiên còn phú cho nó những bộ phận phát triển rất hoàn hảo để phát hiện và định vị con mồi

    Chúng còn rất tò mò, có việc gì xảy ra trên biển là chúng tới ngay để “tìm hiểu”. Có khi chúng bơi sát tới gần và cọ vào vật lạ (da cá mập rất nhám, có thể gây thương tích) hoặc ngoạm nhẹ để thăm dò, nếu các bạn bị chảy máu là coi như là một miếng mồi ngon của nó. Cá mập còn tấn công con mồi theo mùi nước tiểu hay những động vật có cử động không bình thường
    Nguyên nhân chủ yếu cá mập tấn công người không phải chỉ do đói mà còn do bị kích động như ngửi thấy mùi máu tanh, mùi thức ăn ném xuống biển, nghe những tiếng va chạm của tàu thuyền, tiếng nổ…
    Phòng chống cá mập:
    * Những người bị thương chảy máu không được xuống nước.
    * Không ném những vật có máu hay có mùi máu xuống biển vì như thế sẽ thu hút cá mập đến.
    * Không bỏ rủ tay chân xuống nước ở hai bên mạn xuồng, vì cá mập có thể tấn công bất ngờ.
    * Không cởi bỏ áo quần khi ở trong vùng có cá mập, đề phòng lớp da thô ráp của cá mập cọ phải làm bị thương chảy máu
    * Cởi bỏ những vật lấp lánh và phát sáng như đồng hồ, dây chuyền, huy chương, chìa khóa
    * Bơi nhè nhẹ, mềm mại, uyển chuyển, tránh những động tác mạnh bạo làm kích động cá mập
    * Khi thấy cá mập lượn vòng thì thường đó là dấu hiệu chuẩn bị tấn công, phải nhanh chóng lên thuyền hay lên bờ ngay
    *Cá mập thường tấn công vào thời điểm các bạn rời khỏi mặt nước (lúc người còn nửa trên nửa dưới). Vì vậy, các bạn cần nắm chắc thời cơ, khi thấy cá mập sẽ tấn công không kịp thì lập tức lên xuồng hay lên bờ ngay.
    * Nếu thấy cá mập bơi về hướng mình thì không được hoảng sợ bơi tháo chạy (chắc chắn các bạn không thể nào bơi nhanh bằng cá mập) làm như thế chỉ kích thích tính hung hãn của cá mập mà thôi. Nên bình tĩnh tìm cách đối phó như dùng *** bắn (nếu có) dao đâm, gậy chọc... Nếu tay không thì dùng nắm tay đấm thẳng véo mũi cá mập hay duỗi thẳng hai ngón tay chọc mạnh vào mắt nó. Tiếng thét lớn và mạnh cũng làm cho cá mập hoảng sợ bỏ chạy.
    * Sau hết, các bạn không nên đi bơi ở những vùng biển sâu, vùng biển có cửa sông, nhất là thời gian từ chập tối đến rạng sáng.

    CÁ PIRANHA:
    Những con ác quỷ này có gần 60 loài, tất cả đều thuộc họ Serrasalmidac. Loại lớn nhất có thể dài đến 60 cm nặng 10 kg, loại nhỏ 10 cm, có nhiều màu khác nhau. Cá Piranha sống ở sông, hồ, ao, đầm lầy... vùng Nam Mỹ, từ Venezuela cho đến Bắc Brazil.
    Đây là một loại cá cực kỳ hung dữ, ăn tạp, sống thành bầy đàn, nhanh nhẹn, tinh khôn, có hàm răng rất khỏe và sắc nhu dao để xé thịt.
    Kích thước của con mồi không có ý nghĩa gì với chúng, nhất là khi con mồi (người hay vật) đang bị chảy máu. Với một con mồi nặng khoảng 10kg chỉ sau 5 phút là con trơ lại bộ xương. Ngay cả khi đã bị bắt, cá Piranha vẫn còn có thể cắn người. Vì vậy, không nên lội qua những nơi có cá piranha, nhất là khi đang bị thương, có máu chảy. Cũng may mà ở Việt Nam không có loại cá này.

    CÁ ĐIỆN
    Có khoảng 50 loại cá phát ra điện để săn mồi và tự vệ, những con cá này được gọi là cá điện.

    Các ngư dân ở nước ta rất sợ một loài cá đuối đặc biệt: cá đuối điện (Torpedo= Cá thụt) Khi đã câu lên thuyền rồi nếu lỡ chạm phải là bị giật cho té ngửa. Người ta đo được điện thế loài cá này là 360V
    Cá chình điện ở Nam Mỹ có thể mang điện thế đến 600V, sống ở sông Ampazon và sông Orinoco, cá chình điện có thể dài hơn 2m và nặng khoảng 20 kg

    Cá trê điện dài gần 1m, được tìm thấy ở những vùng nước ngọt Châu Phi. Loài cá này gây những cú sốc điện mạnh gần bằng cá chình điện.
    Loài cá điện nhỏ gọi là cá “trừng sao” không dài hơn 30 cm, thường vùi mình trong cát để phục kích các con vật nhỏ. Khi **ng đến nó, sẽ bị giật làm cho tê liệt và dễ dàng biến thành mồi cho nó.

    CÁC LOẠI CÁ CÓ GAI ĐỘC
    Một số loài cá mang trên mình gai độc để tự vệ, những loài cá này các bạn có thể ăn thịt, nhưng khi đánh bắt thì phải thận trọng, điển hình cho loài này là

    Cá đuối gai:

    Loài cá có một hay hai cái gai nằm ở đuôi, gần cuối cơ thể, đầu gai có những tuyến chứa.
    Cá thường ẩn mình dưới cát rất khó thấy, khi bị khiêu khích hay vô tình dẫm phải, nó sẽ quất mạnh đuôi vào đối thủ, gây đau đớn, nhức nhối và tê liệt cho kẻ thù

    Cá ngát:

    Có hình dáng giống như cá trê nhưng to lớn hơn. Được trang bị những cái gai sắc nhọn hai bên hông và trên lưng. Nếu các bạn bị các loại cá này đâm phải, thì sẽ bị nhức nhối vô cùng.
    Cá mâu (mặt quỷ), cá đá:

    Sống ở vùng biển Đông Nam Á và châu Đại Dương, thường ẩn mình trong các hốc đá và bụi rong. Không có vảy, nhưng cơ thể chúng được bao bọc bằng những gai sắc nhọn có chứa nọc độc. Nọc độc của các loại cá này (nhất là cá mâu lửa) có thể gây hoại thư, thậm chí có trường hợp chết người

    Cá rồng biển:

    Thường sống ở các vùng biển châu Âu, thịt ngon nhưng có nọc độc ở gai nắp mang và vây trên lưng. Khi bị chích thì rất đau buốt và có thể làm chết người
    Theo kinh nghiệm của ngư dân, khi bị cá rồng đâm vào, thì lập tức xoa vết thương lên cát hay bôi mỡ hoậc cấp cứu như khi bị rắn cắn.

    Cá dày (Scorpena):

    Loài cá này cũng chứa nọc độc trong các vây khiến cho vết thương rất đau buốt.
    Ngoài ra, chúng ta còn gặp ở Việt Nam những loài cá quen thuộc có gai độc như: cá trê, cá úc, cá chốt, cá ngát sọc, cá nâu, cá rìa, cá vượt... và một số cá có mặt ở một số vùng trên thế giới như: cá monk, cá surgeon, cá zebra, cá weever, cá thom...

    CÁC LOÀI CÁ CÓ CHẤT ĐỘC

    Cá nóc:
    Hiện nay, người ta đã thống kê được khoảng 60 loài cá nóc, phân nửa trong số này có chứa độc tố bên trong. Ở nước ta có khoảng 20 loài cá nóc, một số loài sống ở nước ngọt như: cá nóc Mít, cá nóc Vàng... Nhưng phần nhiều là cá nóc sống nước mặn như: cá nóc Hòm (Hùm), cá nóc nhím, cá nóc Mú, cá nóc Gáo, cá nóc Tàn Nhan, cá nóc Rằn, cá nóc Phi (Trương Phi), cá nóc Thu... Trong số đó có 2 loài cực độc, ngư dân không dám **ng đến là cá nóc Phi và cá nóc Thu. Số còn lại, nếu biết cách làm và nấu, có thể ăn được.

    Cá nóc là loài có mình tròn, thân ngắn, có nhiều gai, không cá vảy hay vảy kém phát triển, mắt lồi, miệng nhỏ có răng gắn với nhau thành tấm lưng màu nâu hoặc xanh hay vàng tùy theo loại cá, bụng trắng. Đặc biệt khi gặp nguy hiểm thì ngậm hơi và phình bụng to ra như quả bóng. Trong mình cá nóc mang những chất cực độc như là terrodotoxin, ciguatoxin, ciguaterin... tập trung chủ yếu ở gan, ruột, và cơ bụng, nhất là từ tháng Hai đến tháng Bảy là mùa sinh sản.
    Mặc dù một vài loại cá nóc là đặc sản (cá nóc Nhím, cá nóc Mú, cá nóc Hòm... ) thịt ăn rất ngon. Nhưng nếu các bạn không phải là tay chuyên nghiệp thì nên tránh xa, cho dù nó có thơm ngon và hấp dẫn đến đâu đi nữa.
    Khi bị trúng độc cá nóc, trước tiên, thấy tê lưỡi và môi, rân rang đầu ngón, tay ngón chân như kiến bò, tiếp theo là nôn mửa, nhức đầu choáng váng, khó chịu ở trán và tròng mắt, đồng từ giãn, da tím, thân nhiệt và huyết áp hạ. Sau 2 giờ, nếu không cứu chữa, toàn thân sẽ bị tê liệt, lạc giọng, hàm cứng (nhưng vẫn tỉnh táo) chỉ trước khi chết mới bất tỉnh, liệt hô hấp rồi chết (tỷ lệ tử vong 60%). Nói chung, nếu sau 24 giờ mà vẫn còn sống thì có cơ may cứu thoát.
    Theo kinh nghiệm dân gian, độc cá nóc có thể giải bằng nước dừa, nước quả trám, nước rễ rau muống. Nướng trái bông vải rồi sắc uống. Đắp muối toàn thân chỉ chùa mắt mũi. Cho uống than hoạt tính hay dùng 2 muỗng canh tro thực vật pha trong 1 lít nước để lắng rồi cho uống. Nhưng cũng còn tùy theo nhiễm độc nặng hay nhẹ.

    Các loại cá khác:
    Khi khảo cứu về độc tố của các sinh vật biển, nhiều nhà sinh vật học rất bối rối. Có nhiều loại cá chưa bao giờ nghe nói ăn mà bị trúng độc, thế mà lại có thể gây họa. Một số có độc ở vùng này nhưng không độc ở vùng khác, một số chỉ gây độc vài ba tháng trong năm

    Cá chình:

    Ở vùng biển Hắc Hải, đã có hàng ngàn người chết vì cá chình biển, trong khi ở Đông Nam Á là một món đặc sản. Nhiều nghiên cứu cho thấy chất độc nằm trong máu, có lẽ do cá ăn những sinh vật mang trong mình nhiều độc tố ở trong vùng sinh trưởng của nó. Đây cũng là một loại cá dữ, hay cắn người.

    Cá lịch (maraelae):

    là một loài tương tợ như cá chình, sống ở Địa Trung Hải, Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương, thịt rất ngon nhưng máu rất độc.
    Độc chất đôi khi còn thấy hiện diện trong máu của các loài cá miệng tròn, cá tinca, cá chép, cá ngừ, cá đuối điện...
    Một số loài cá cũng chứa chất độc trong trứng như cá Cung (schizothorax) cá Dưa Chuột (diptychus)... có thịt lành và có giá trị kinh tế ở vùng Trung Á, nhưng trứng của nó rất độc, cho nên trước khi chế biến, phải bỏ hết nội tạng.

    Ngay cả loài cá nhồng (barracudas) mà chúng ta vẫn thường ăn, nhưng vẫn có nhiều người bị trúng độc, tê miệng, ngứa môi phải đi bệnh viện

    ỐC ĐỘC
    Loài ốc sên biển hình nón (contesnail) có vân cẩm thạch nhìn rất đẹp, nhưng xin chớ lầm, nếu giẫm phải chúng, sẽ bị tiêm những ngòi nọc, độc không thua nọc rắn hổ, rất đau đớn và có thể chết người

    SAM ĐỘC

    Loài Sam (còn gọi là cua móng ngựa) thường sống ở vùng cát pha bùn ven bờ biển, có thịt và trứng ăn rất ngon, nhưng các bạn phải cẩn thận với những con Sam bắt được ở vùng nước lợ (ngư dân gọi là Sam lông hay con So) có kích thước nhỏ hơn, mình nhiều lông, đuôi tròn (thay vì tam giác như Sam thường) đi lẻ (không bắt cặp), thịt rất độc, chết người, không thể ăn được. Ngoài ra, nếu các bạn bắt được những con cua mà thấy hơi dị dạng, bẻ que ra mà thấy có chất lỏng như mủ thì đừng ăn

    SỨA, THỦY CẨU
    Sứa: Là một sinh vật gần như trong suốt, có thân hình như một cái dù, màu trắng, xanh lơ hay hồng, có hay không có điểm những chấm màu nâu, đỏ. Các loại sứa thường thấy ven biển nước ta là sứa Rô, sứa Sen, sứa Lửa...

    Là một loại thực phẩm khá phổ biến của ngư dân, nhưng nếu bạn bị nó chích khi đang bơi lội thì rất đau đớn như bỏng rát, có thể bị liệt cơ, nên rất nguy hiểm. Nhưng nguy hiểm nhất là các loài sứa sau đây:
     
  14. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    Thủy cầu và sứa Hộp:
    Thủy cầu có tên khoa học là Physalia phisalis. Là một sinh vật trông giống như sứa nhưng có những cánh tay rất dài và mềm, lòng thòng chìm sâu trong nước. Trên mỗi cánh tay có nhiều hấp khẩu chứa đầy chất độc nguy hiểm hơn nọc rắn.

    Do tác động với lân tinh trong nước biển, chúng phát ra muôn ngàn màu sắc rực rỡ. Trước đây, một đòan thủy thủ Anh đang tuần tra ven biển Bồ Đào Nha, trông thấy một khối ánh sáng lấp lánh đủ màu, họ cho đấy là chiến thuyền của Bồ Đào Nha nên đánh tín hiệu chào nhưng không thấy trả lời. Sau đó, họ khám phá ra đấy chỉ là một đàn thủy cầu. Từ đó người ta quen gọi nó là “Chiến thuyền Bồ Đào Nha” (PORTUGUESE MAN OF WAR) mà quên hẳn tên nó là Thủy cầu hay Physalia physalis.
    Thủy cầu thường trôi nổi bềnh bồng trên dòng Gulf Stream, Bắc biển Caribe đến Nova Scotia, nó còn lảng vảng trên Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Những tay bơi lội ngoài biển mà gặp phài thủy cầu thì kể như khó mà sống sót. Vì thế người ta còn gọi nó là TỬ THẦN CỦA BIỂN.

    Sứa hộp (Chironex Fleckeri):
    Tên sát nhân của biển này đã có một danh sách nạn nhân khá dài, phần lớn là trẻ em ở ven biển Bắc Úc, nó còn có họ hàng ở Châu Phi, Trung Mỹ... Nó đã thoát khỏi sự nhận diện của các nhà khoa học cho mãi đến năm 1956. Một con sứa hộp có khoảng 60 xúc tu trông như một mớ dây hỗn độn, trong đó chứa hàng tỷ túi chất độc hơn cả rắn hổ mang, đủ sức giết chết 20 người đàn ông khỏe mạnh. Nếu xúc tu của chúng tiếp xúc đúng mức, nạn nhân sẽ chết sau 2-3 phút
    Khi bị tiếp xúc với sứa hộp mà còn sống sót, thì người ta dội dấm lên mình của nạn nhân để cấp cứu.

    Những nguy hiểm khác:
    Khi bơi lặn ở dưới nước, ngoài các động nguy hiểm như đã kể trên, các bạn còn có thể gặp một số sinh vật có thể gây thương tích thậm chí nguy đến tính mạng của các bạn như:

    Hàu Đá:
    Bám rất chắc vào những tảng đá ven biển, có cạnh rất sắc bén. Nếu các bạn trượt chân té trên những tảng đá có hàu bám, chắc chắn sẽ có những vết thương nhớ đời

    Ốc đinh, ốc kèn:

    Có thể luộc ăn được, nhưng nếu giẫm lên nó là thủng chân, vì đít của nó rất nhọn.

    Cầu gai hay nhím biển:
    Thường gặp ở rìa đá ngầm vành đai san hô... có gai dài và nhọn mang chất độc gây lở loét.

    Sò nón khổng lồ:

    Có nhiều ở quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa của nước ta và vành đai san hô nước Úc... Đây là một loài sò khổng lồ, có khi to hơn cái nón lá, thịt ăn được. Nhưng nếu bạn cho tay vào hay vô tình giẫm chân vào là nó kẹp dính bạn cho đến lúc bạn chết đuối. Nếu muốn lấy tthịt nó, trước hết các bạn phải chêm hai mảnh vỏ lại bằng cây hay đá

    Nhện độc:
    Trong các loài côn trùng độc, có lẽ nhện là con vật mang mầm độc cao nhất. Có những con nhện chỉ với một vết cắn bé tí xíu, với một chấm chất độc bằng đầu kim, đủ để giết chết một con người. Tuy nhiên, trong số 40.000 loại nhện khác nhau, chì có độ 100 loại với nọc độc có khả năng gây khó chịu cho con người, nhưng chỉ có khoảng 10 loại là thật sự nguy hiểm.
    Tiêu biểu nhất là “góa phụ đen” (Black Widow). Đây không phải là loại nhện độc nhất, nhưng nó đông đúc và phổ biến ở vùng Châu Mỹ. Chỉ có nhện cái mới đe dọa con người. Ảnh hưởng của vết cắn đến sau 1-2 giờ. Nạn nhân co giật liên hồi và bị ngẹt thở, có khi nạn nhân hoảng loạn thần kinh la hét sợ hãi, cho dù nọc của nó hiếm khi làm chết người nhưng nó vẫn rất nổi tiếng.

    Ở Châu Mỹ còn có một loại nhện độc cũng khá đông đúc nữa đó là nhện nâu (Brown Recluse) có nọc độc như “goá phụ đen” và còn gây hoại thư.

    Tuy nhiên, hai loài nhện trên cũng còn thua xa loài nhện Funnel- Web ở Sydney nước Úc cả về nọc độc lẫn tính hung hăng của nó

    Với bộ nanh dài gần 1 cm, loài nhện cực độc này tấn công mọi sinh vật mà nó gặp trên đường đi.
    Chỉ vài phút sau khi bị cắn, chất độc sẽ tác dụng lên cơ của nạn nhân, khiến lưỡi bị co thắt, dớt dãi chảy lòng thòng, nạn nhân nôn mửa, toát mồ hôi, khó thở, huyết áp tăng, các bắp thịt quằn quại như thể có đàn rắn nằm dưới da. Với một vết cắn của Funnel- Web, có thể giết chết một em bé sau vài giờ hoặc một người lớn sau vài ngày.
    Ở nước Úc, còn có những loài nhện cực độc khác như (Phoneutia fera) có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Loài Atrax robustus cũng là một trong số 37 loài Funnel Web cực độc... Ngoài ra, chúng ta cũng phải kể thêm loài nhện Loxosceles ở châu Mỹ, loài Tarantula ở rừng Amazon, tuy ít độc hơn các loài trên, nhưng không kém phần nguy hiểm.

    Con rết (rít, ngô công):

    Cơ thể của rết thường là nhỏ, nhưng cũng có con dài tới 25 cm. Thân dẹt, bao gồm khoảng 20 đốt, mỗi đốt mang một đôi chân. Đầu ngắn, miệng nằm giữa hai hàm trên. Đôi chân thứ nhất biến thành răng hàm có móc chứa nọc độc
    Rết thường ẩn núp dưới các tảng đá, thân cây, lá cây, vỏ cây mục, cỏ khô, rác ẩm... Chúng hoạt động chủ yếu về đêm.
    Khi bị rết cắn, tuy không làm chết người, nhưng sưng nhức và đau đớn, có thể gây sốt, khó chịu vô cùng. Các bạn hãy dùng một trong những phương pháp sau đây:
    - Bôi vôi hạt quất (tắc, kim quít) đắp vào vết cắn.
    - Lấy lá bạc hà, húng chanh, rau sam. Giã đắp vào vết cắn.
    - Nhai nhỏ một tép tỏi, đắp vào chỗ cắn. Đưa chỗ bị cắn vào gần ngọn đèn hay lửa cho thật nóng (không để bị phỏng) để yên vài phút, sẽ giảm đau ngay.
    - Bắt một con nhện nhà (tri thù) còn sống, để vào chỗ bị cắn; nó sẽ hút hết nọc.

    Bọ cạp:

    Ở Việt Nam, chúng ta thường gặp 2 loại bọ cạp là: bọ cạp núi và bọ cạp củi.

    Bọ cạp núi:
    Là loại lớn, dài khoảng 12cm, mình màu xanh, đen bóng. Thường gặp ở rừng núi, hải đảo, đất hoang... Tuy to lớn nhưng chích không đau nhức bằng bọ cạp củi.

    Bọ cạp củi:

    Là loại nhỏ chỉ dài từ 5-6 cm có màu nâu xám (giống màu vỏ cây). Thường ẩn mình dưới các tảng đá, đống cây, hốc cây, khe núi... và cũng hay chui vào các đống áo quần, giày dép... Loài bò cạp này chích rất đau nhức, nhất là khi nó đang có chửa.
    Điều trị bọ cạp chích cũng giống như khi bị rết cắn.

    Ong đốt:
    Thông thường thì loài ong ít khi tấn công người, trừ khi chọc phá hay bị khiêu khích. Khi ong bay đến gần chúng ta, không nên dùng tay xua đuổi, vì như thế chúng cho là tấn công. mà nên bình tĩnh, không phản ứng bằng hành động, tự nó sẽ bay đi.

    Các loài ong có ngòi độc thường gặp ở Việt Nam và một số nước trên thế giới là: ong đen, ong vàng, ong lá, ong mật, ong khoái, ong ruồi, ong sắt, ong bầu, ong vò vẽ, ong bắp cày, ong ngựa, ong đất, tò vò... Mội loài đều có nọc độc cũng như tập tính khác nhau. Thí dụ:

    Ong bầu:
    là loại ong có vết đốt gây nguy hiểm nhất trong các loài ong vì nó chứa một lượng lớn nọc độc và vòi chích của nó rất dài, có thể xuyên thẳng đến mạch máu.

    Ong vò vẽ:
    loại ong này khá dữ tợn, vết đốt rất đau nhức và nó có thể đốt nhiều lần vì kim chích của nó không bị dính lại ở da kẻ bị đốt

    Ong khoái:
    là một trong các loại ong mật, rất phổ biến y trong các cánh rừng tràm ở miền Tây Nam Bộ. Có cơ thể to hơn các loài ong mật khác và cũng dữ tợn hơn. Vòi chích của nó dính lại ở da người bị đốt, cho nên sau khi đốt, nó sẽ chết.

    Ong đốt tuy rất đau nhức, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng, trừ khi bị đốt một lúc từ 50 con trở lên hoặc cơ thể người đó bị dị ứng với nọc độc.
    Khi bị ong đốt, nếu thấy ong để ngòi nọc lại, thì phải nhổ ra, sau đó hãy dùng một trong những phương pháp sau:
    - Bôi vôi (ăn trầu) hay kem đánh răng vào chỗ bị đốt
    - Tán nhỏ Aspirin rắc lên nơi bị đốt, sẽ giảm đau.
    - Dùng hành tươi hay nửa trái chanh chà lên chỗ bị đốt
    - Dùng ammoniac hoặc dấm bôi lên chỗ bị đốt.
    - Đập chết con ong, xé xác đắp lên chỗ bị đốt

    Ve cắn:
    Ve nầy không phải là ve sầu kêu trong mùa hè mà là một loại côn trùng rất nhỏ, có nhiều ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, cùng loại với bọ chó ở nhà. Bình thường, chỉ bằng đầu cây tăm, khi hút no máu thì phình lên bằng đầu chiếc đũa, đầu giả có gai, khi cắn vào người hay thú để hút máu, gai giương lên bám chặt vào cơ thể nạn nhân.

    Khi bị ve cắn, nếu các bạn cầm con ve kéo ra ngày thì đầu giả sẽ đứt dính trở lại trong da thịt, gây nóng sốt và làm ngứa ngáy cả năm mới hết. Muốn tránh điều đó, các bạn nên dùng đầu que nhang, que diêm, điếu thuốc đang cháy, chạm vào đít của nó rồi từ từ mới lôi ra để giết, sau đó bôi vôi lên vết cắn.

    Muỗi:
    Chúng ta có thể gặp muỗi bất cứ ở nơi nào trên thế giới. Là một giống côn trùng bé nhỏ mà nguy hiểm của nó không do vết đốt gây ngứa ngáy khó chịu mà do những căn bệnh chết người mà nó truyền cho con người như: sốt rét ngã nước, sốt vàng da, sốt xuất huyết... mà chúng ta không còn lạ gì. Bệnh sốt rét do muỗi Anophele truyền sang người khi đốt. Bệnh sốt da vàng do muỗi Acdes. Bệnh sốt xuất huyết do loài muỗi vằn...

    Các bạn nên tìm mọi cách để tránh không bị muỗi cắn bằng các cách sau:
    - Làm chỗ trú ẩn nơi cao ráo
    - Ngủ trong mùng nếu có thể
    - Đốt lửa hun khói bằng những cây có tinh dầu
    - Trát bùn lên cơ thể, những nơi không có áo quần che chở.
    - Mặc cả áo quần, giày vớ, găng tay, nếu có thể được.
    - Ngâm mình trong bùn không những có thể chống được muỗi mà còn tránh được thú dữ, côn trùng, rắn rết...
    - Thoa thuốc chóng muỗi (insect repellent) nếu có

    Các loài côn trùng khác:
    Các bạn còn có thể gặp một số côn trùng khác ở những nơi hoang dã như: Ruồi trâu (mòng) cắn rất đau. Ruồi Tse Tse (ở Nam Phi Châu): gây bệnh ngủ dẫn đến chết người. Ruồi rừng (có nhiều ở Việt Nam): đẻ ấu trùng (giòi) vào các vết thương, gây lở lói, nhiễm trùng.. và rất nhiều côn trùng khác mà tôi không thể kể hết
     
  15. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    29. Bảo vệ sức khoẻ

    Như tàu đã trình bày ở những phần trước, trong vùng hoang vu vắng vẻ, nhất là khi chỉ có một mình, nếu bị thương tích hay bệnh hoạn, thì tình cảnh của các bạn thật là thê thảm. Nó sẽ lấy đi của các bạn niềm tin và nghị lực, các bạn sẽ cảm thấy cô đơn, nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la, hung hiểm,… Và khi các bạn không còn nghị lực phấn đấu để sinh tồn thì thiên nhiên hoang dã sẽ nuốt chửng bạn. Cho nên các bạn phải làm sao cố gắng hết sức để gìn giữ và bảo vệ sức khỏe.
    Các bạn cũng cần phải có một số kiến thức nhất định về một số cây cỏ, động vật, côn trùng dùng để đề phòng và chữa bệnh. Biết giữ gìn vệ sinh cơ thể cũng như vệ sinh khu vực trú ẩn. Biết đề phòng cũng như chữa trị một số bệnh thông thường, nhất là những căn bệnh thường gặp ở những nơi núi rừng hoang vu như: sốt rét, tả, lỵ,… Biết sơ cứu một số trường hợp khẩn cấp.

    ĐỀ PHÒNG

    1. GIỮ GÌN VỆ SINH
    Thân thể:
    - Tắm rửa hàng ngày nếu có thể được.
    - Vệ sinh răng miệng. (nếu không có bàn chải đánh răng thì dùng vỏ cau khô hay một cành cây dẻo cắn nát một đầu)
    - Giặt giũ áo quần, phơi dưới nắng.
    - Không để cho côn trùng, ruồi, muỗi,… chích đốt
    Nơi trú ẩn:
    - Quét dọn trong ngoài sạch sẽ.
    - Ánh sáng và thông thoáng.
    - Đốt bỏ hay chôn rác rến và chất thải.

    2. ĐỀ PHÒNG CÁC BỆNH ĐƯỜNG RUỘT
    - Rửa tay trước khi ăn, đừng bốc thức ăn bằng tay bẩn.
    - Ăn thức ăn đã được nấu nướng cẩn thận.
    - Uống nước đã được đun sôi hoặc khử trùng.
    - Đừng ăn củ hay trái còn xanh, sống.
    - Đừng ăn thức ăn ôi thiu, để lâu.
    - Không để ruồi nhặng, côn trùng đậu vào thức ăn.

    3. PHÒNG NHIỆT
    - Đừng làm việc quá sức dưới trời nắng.
    - Đừng ở lâu dưới trời nắng.
    - Uống nước sôi để nguội có pha muối (1/2 muỗng cà-phê cho một lít nước) khi ra nhiều mồ hôi.

    4. PHÒNG LẠNH
    - Sưởi ấm cơ thể mình bằng mọi cách.
    - Giữ cho quần áo được khô ráo, nhất là quần áo lót, vớ,… nếu bị ướt, phải hong khô ngay. Không được mặc đồ ướt.
    - Mặc nhiều quần áo để giữ ấm (có thể dùng cỏ khô, rêu, da thú, vỏ cây,… đệm giữa các lớp áo quần để chống lạnh).
    - Giữ cho tay chân không bị tê cóng.
    - Không dầm mưa hoặc tắm nước lạnh quá lâu.

    CHỮA BỆNH KHÔNG CẦN THUỐC

    Ở đây chúng tôi sẽ không hướng dẫn cho các bạn cách điều trị bằng thuốc Tây (điều này các bạn hãy tự nghiên cứu, vì cho dù nếu muốn, thì nơi hoang dã cũng khó mà tìm ra), mà chúng tôi sẽ hướng dẫn cho các bạn cách tự chữa cho mình bằng tất cả những gì bạn có hay có thể tìm kiếm được ở nơi hoang dã.
    Người ta có thể tự khỏi được phần lớn bệnh tật, kể cả cúm và cảm lạnh thông thường mà không cần đến thuốc men. Cơ thể chúng ta có khả năng bảo vệ riêng của nó để chiến đấu chống lại bệnh tật. Nhiều khi khả năng bảo vệ tự nhiên này lại quan trọng hơn thuốc. Ngay cả trong trường hợp bệnh nặng, cần có thuốc, thì cũng là cơ thể phải chiến thắng bệnh, thuốc chỉ có vai trò giúp đỡ mà thôi. Sạch sẽ, nghỉ ngơi, thức ăn bổ dưỡng là những điều quan trọng và cần thiết để chiến thắng bệnh tật.
    Nếu các bạn đang ở một nơi hoang dã, thiếu thốn thuốc men, cũng vẫn còn nhiều điều các bạn có thể làm để phòng và chữa phần lớn các bệnh thông thường nếu các bạn chịu khó học cách làm.
    Để chiến thắng bệnh tật, trước tiên, các bạn cần có một tinh thần kiên định và một nghị lực vững vàng. Ngoài những yếu tố sạch sẽ, nghỉ ngơi, ăn uống, các bạn cần phải biết cách sử dụng nước cũng như am hiểu một số dược thảo cơ bản.
    Nếu các bạn chỉ tìm hiểu cách sử dụng nước cho đúng đắn thôi, thì riêng điều đó cũng có nhiều tác dụng để phòng và chữa các bệnh hơn là tất cả các thứ thuốc mà người ta dùng (không đúng cách) ngày nay.

    CHỮA BỆNH BẰNG NƯỚC
    Ai trong chúng ta cũng có thể sống mà không có thuốc, nhưng không ai có thể sống mà không có nước. Thật vậy, vì hơn phân nửa (57%) cơ thể của chúng ta là nước. Nếu tất cả mọi người đang sống trong các trang trại, làng quê hay những vùng hoang dã, biết sử dụng nước một cách tốt nhất, thì số bệnh tật và tử vong, rất có nhiều khả năng giảm đi một nửa.
    Nhiều trường hợp sử dụng nước đúng cách, có thể có tác dụng hơn là thuốc men
    Chẳng hạn, việc sử dụng nước đúng cách, là cơ sở trong cả phòng bệnh lẫn chữa bệnh tiêu chảy. Ở nhiều địa phương cũng như nơi nông thôn hoang dã, tiêu chảy là nguyên nhân thông thường nhất về bệnh tật và tử vong (nhất là trẻ em). Bệnh nhân chết là do cơ thể mất nước trầm trọng. Bị tiêu chảy là do sử dụng nước ô nhiễm. Dụng cụ ăn uống và tay chân không được rửa sạch.
    Để điều trị tiêu chảy, cần cho bệnh nhân uống nhiều nước (tốt nhất là uống với đường, mật ong hay muối), nó còn quan trọng hơn bất cứ một thứ thuốc nào.
    Sau đây chúng tôi nêu ra một số các trường hợp khác, mà việc sử dụng nước đúng đắn còn quan trọng hơn việc dùng các loại thuốc.

    ĐỂ PHÒNG BỆNH:

    1. Tiêu chảy, giun, nhiễm trùng đường ruột.
    - Uống nước đã nấu chín, rửa tay sạch sẽ

    2. Nhiễm trùng da
    - Tắm rửa thường xuyên

    3. Vết thương bị nhiễm trùng
    - Rửa kỹ vết thương với nước và xà-phòng

    ĐỂ CHỮA BỆNH

    1. Tiêu chảy, kiệt nước
    - Uống nhiều chất lỏng

    2. Các bệnh có sốt
    - Uống nhiều chất lỏng

    3. Sốt cao
    - Chườm mát cơ thể

    4. Nhiễm trùng nhẹ đường tiểu
    - Uống nhiều nước

    5. Ho, hen phế quản, viêm phế quản, viêm phổi, ho gà
    - Uống nhiều nước và xông bằng hơi nước nóng.

    6. Lở, chốc, nấm da, nấm da đầu
    - Tắm với nước xà-phòng

    7. Vết thương nhiễm trùng, áp-xe, nhọt, đầu đinh
    - Đắp nước nóng hoặc chườm nóng

    8. Cứng cơ, đau cơ và khớp
    - Chườm nóng

    9. Phỏng nhẹ.
    - Ngâm vào nước lạnh

    10. Viêm họng hoặc viêm Amidan.
    - Súc họng băng nước muối nóng.

    11. Ngạt mũi
    - Hít nước muối vào mũi.
     
  16. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    30. Cấp cứu

    Khi cấp cứu nơi hoang dã, đòi hỏi các bạn phải có sự linh động, óc sáng tạo và một kiến thức đa dạng, vì ở đó, các bạn thiếu thốn mọi phương tiện, dụng cụ, thuốc men. Các bạn cũng vừa là cứu thương viên, vừa là y sĩ điều trị, cho nên trách nhiệm của các bạn nặng nề hơn.

    * Chăm sóc vết thương:
    Đừng để cho vết thương bị nhiễm trùng, đừng để cho ruồi bọ đậu vào, nhất là loại ruồi rừng (loại này không đẻ trứng mà đẻ trực tiếp ra ấu trùng là những con giòi, lớn rất nhanh, **c khoét vết thương của các bạn).

    * Sát trùng vết thương: Rửa vết thương bằng nước đun sôi để nguội với xà phòng (nếu có).
    Hay với dung dịch nấu sôi: Tô mộc + Hoàng đằng + Phèn chua + nước (nếu có thể). Hay với dung dịch: lá Trầu không còn tươi + phèn chua + nước.
    Hoặc nấu nước với một trong những loại cây thuốc sau: cây Cỏ hôi, cây Sầu đâu, Chó đẻ...
    Đắp tươi các cây thuốc như: Dâm bụt, Ké hoa vàng (cỏ chổi), lá Móng tay, Liên kiều, Ba chạc, lá Trầu không...

    * Điều trị vết thương: bằng cách đắp một trong các cây thuốc sau:
    - Lá mỏ quạ tươi, bỏ cọng, rửa sạch giã nát đắp lên. Lúc đầu, rửa (bằng các dung dịch kể trên) và thay băng hàng ngày, sau 3-5 ngày, nếu thấy vết thương đã nhẹ thì hai ngày thay băng một lần.
    - Lá cây Bông ổi (cứt lợn) giã nát đắp lên, vừa cầm máu, vừa sát trùng và mau lên da. Hoặc giã nát vỏ và lá Bời lời nhớt, Tơ mành, Ké hoa vàng, Hạ khô thảo, Cải trời, Chó đẻ. Rau diếp cá, Thuốc bỏng (sống đời), Thuốc giấu, lá Thường sơn...
    Khi vết thương đã sạch, đang trong giai đoạn phát triển tổ chức hạt nhưng không đều, cần bôi một trong các loại thuốc sau: Nghệ già, củ ráy (chóc), Dầu mè, Sáp ong...

    Cầm máu
    Khi bị một vết thương chảy máu, các bạn phải nhanh chóng tìm mọi cách làm ngưng chảy máu, để hạn chế mất máu nhiều có thể gây choáng nặng dẫn đến tử vong.

    * Đứt tĩnh mạch, động mạch nhỏ hay mao quản: Trường hợp này, máu chảy tràn ra ít thì vết thương tự cầm máu. Nếu máu chảy nhiều thì hãy đắp một trong những loại thuốc sau đây rồi băng ép lại:
    Giã nát và đắp lên vết thương một trong các cây thuốc sau: Thuốc bỏng (sống đời), Thuốc giấu, Bông ổi, Huyết dụ, Tam thất, Bách thảo sương (nhọ nồi), Bại hoại (móng rồng), Cà kheo (sừng hươu, sống đời lá rách), rau Cần (cải rừng tía), Củ chóc (bán hạ Nam, Ráy), Quế rành (Trèn trèn, Quế trèn), Tai hùm, Thài lài trắng, Tu hú trắng...
    Giã nát và vắt nước uống các cây: nhọ nồi, nghể...
    Theo kinh nghiệm dân gian, người ta còn cầm máu bằng các chất liệu như tóc, lông, mạng nhện, thuốc rê... tuy hiệu nghiệm nhưng không bằng dùng cây cẩu tích.

    Cây cẩu tích:

    Còn gọi là cây lông cu li, kim mao cẩu tích, cẩu tồn mao, cây lông khỉ, (tên khoa học là cybotium barometz). Có nhiều ở Bạch Mã (Thừa Thiên), Đà Lạt... Các bạn hãy tìm kiếm hoặc mua một gốc cẩu tích (hình bên) rồi vặt lông tẩm cồn 90o phơi khô. Khi gặp vết thương máu ra nhiều thì lấy đắp vào vết thương rồi băng ép lại, máu sẽ cầm rất nhanh.
    Cây cẩu tích sẽ ra lông trở lại nếu các bạn phun rượu trắng vào gốc rồi mang để vào nơi thoáng mát.

    * Đứt động mạch quan trọng: Trường hợp máu chảy màu đỏ tươi, phun thành tia theo nhịp tim, hoặc trào mạnh ra ngoài theo vết thương. Các bạn phải nhanh chóng sử dụng một trong những biện pháp sau:

    1. Ấn chặn vết thương:
    Dùng những cây thuốc và vị thuốc như đã nói trước, đắp lên vết thương, rồi dùng tay, băng hay khăn sạch ấn mạnh vào vết thương. Giữ chặt cho đến khi máu ngưng chảy. Nếu máu chưa cầm được, hãy nâng cao phần bị thương lên càng cao càng tốt. Nếu cần thì buộc (hơi nhẹ) thêm ga rô.

    2. Ấn chặn động mạch:
    Là dùng ngón tay, nắm tay ấn mạnh vào động mạch, giữa vết thương và tim. Đó là những nơi mà các động mạch chính chạy chéo trên xương. Động mạch giữa ngón tay và nền xương làm máu phải ngừng chảy. ấn chận động mạch là biện pháp cầm máu tạm thời và rất hiệu nghiệm, nhưng có nhược điểm là không thể làm lâu vì mỏi tay.

    * Các điểm ấn chận động mạch: (xem hình)
    - Động mạch thái dương: để cầm máu đỉnh đầu.
    - Động mạch dưới mang tai: để cầm máu ở mặt.
    - Động mạch cảnh ở cổ: để cầm máu vùng đầu.
    - Động mạch dưới xương đòn: để cầm máu vùng nách và cánh tay.
    - Động mạch cánh tay trong: để cầm máu từ vùng cẳng tay trở xuống.
    - Động mạch ở háng và đùi: để cầm máu từ vùng đùi trở xuống.

    Sau khi ấn chận động mạch, các bạn nên đắp các loại thuốc cầm máu vào vết thương và băng ép lại thật chặt. Sau đó, nới tay ra từ từ, nếu thấy máu còn chảy thì lập tức ấn chặn trở lại.
    Cho uống thêm bài thuốc cầm màu có 02 vị chính là:
    - Tô mộc
    - Nghệ vàng
    Tùy theo trường hợp mà gia thêm các vị thuốc khử ứ, hoạt huyết như Tam thất, Tóc đốt, Bồ hoàng.

    3. Đặt garô (garrot):
    Là một phương pháp cầm máu hữu hiệu nhưng rất nguy hiểm, cần theo dõi một cách cẩn thận khi áp dụng.
    Lấy một sợi dây chắc, không đàn hồi (cà vạt, khăn tay, khăn quàng...) cột một vòng quanh đùi, hay cánh tay, phía trên vết thương (giữa vết thương và tim) chừng 10cm. Dùng một cây thước kẻ hoặc một đoạn cây ngắn, nhỏ, xỏ ngang và xoắn lại. Trước khi xoắn, các bạn nên đệm vào điểm muốn nén một vật hơi cứng (viên sỏi bọc vải, khăn tay cuộn lại...) mục đích là để cho vật đó đè xuống mạch máu, khiến cho máu không lưu thông được. Các bạn xoắn cho đến khi thấy máu ngưng chảy thì dùng dây mềm cột que vào cánh tay hay đùi.
    Có thể đặt ga rô với một sợi dây có tính đàn hồi (ống cao su mềm): Căng thẳng dây ra, quấn hai vòng quanh cánh tay hay chân rồi siết lại.

    NGUYÊN TẮC ĐẶT GA RÔ:
    - Đặt trên vết thương độ 10cm, lộ ra ngoài, dễ thấy.
    - Đắp các loại thuốc cầm máu và sát trùng ở vết thương.
    - Khoảng 15 phút thì từ từ nới lỏng ga rô một lần, nếu thấy máu còn chảy thì siết ngay lại.
    GHI NHỚ: Ga rô chỉ nên dùng khi không còn biện pháp nào khác và phải chấp hành đúng quy định về ga rô, vì nếu không sẽ dẫn đến chết hoàn toàn đoạn chi đó, phải cắt bỏ.

    MỘT SỐ BÀI THUỐC CẦM MÁU

    BÀI SỐ 1:
    Công thức: Bột sâm đại hành (không hạn chế liều lượng).
    Tác dụng: Cầm máu, tiêu ứ máu, giảm sưng đau, lên da non
    Thích hợp: Cầm máu động mạch và tĩnh mạch, điều trị các vết thương phần mềm.
    Chế biến: Dùng củ đã cắt bỏ rễ và thân, rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy thật khô, tán thành bột thật nhỏ, rây mịn, cho vào chai hoặc túi nylon thật kín để nơi khô ráo.
    Cách dùng: Rắc thuốc cầm máu lên cho kín vết thương, sau khi đã sát trùng, đặt gạc hay vải sạch lên vết thương, băng ép chặt. Mỗi ngày thay thuốc một lần.

    BÀI SỐ 2:
    Công thức:
    - Cỏ nhọ nồi (cỏ mực) sao cháy đen 100gr
    - Lá chuối hột khô sao cháy đen 100gr
    - Than tóc 100gr
    Tác dụng: Cầm máu, tiêu sưng, sinh da non
    Thích hợp: Cầm máu động mạch và tĩnh mạch, điều trị các vết thương phần mềm.
    Chế biến:
    - Cỏ nhọ nồi cắt bỏ rễ, rửa sạch, phơi khô, thái nhỏ, sao đen (tồn tính)
    - Lá chuối hột rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, sao đen (tồn tính).
    - Tóc rửa bằng nước bồ kết, sấy khô rồi đốt cháy thành than
    Ba thứ trên liều lượng bằng nhau, tán nhỏ, rây mịn. Đựng vào chai lọ hay túi nylon hàn kín. Bảo quản nơi khô ráo.
    Cách dùng: Như bài số 1.

    BĂNG BÓ:
    Để che chở vết thương hay để cầm máu hoặc để giữ êm chỗ bị thương trong trường hợp gãy xương, chúng ta cần biết một số phương pháp băng bó.
    * Cách băng bằng băng cuộn:

    VÀI ĐIỀU CẦN LƯU Ý:

    1. Với những vết thương nhẹ, cần đắp thuốc cầm máu và sát trùng rồi mới băng lại.
    2. Kỹ thuật băng bó còn tùy thuộc vào phần cơ thể bị thương, với yêu cầu: kín = phải bao bọc kín vết thương. Gọn và chắc = không quá chặt khiến cho máu không lưu thông được, không sút sổ khi cử động.
    3. Khi cần cầm máu, phải ép băng đủ chặt.

    * Cách băng bằng loại băng tam giác:
    Là loại băng vải hình tam giác vuông cân, mỗi cạnh góc vuông khoảng 80 đến 90cm. Có thể sử dụng khăn quàng, khăn vuông xếp lại, miếng vải... Dùng để băng bó, treo tay, cố định xương gãy hoặc xếp lại thành băng cà vạt.

    GÃY XƯƠNG:

    Ở trong vùng hoang dã, nơi mà thuốc men và dụng cụ y tế thiếu thốn mà bị gãy xương thì thật là thảm họa, cho nên các bạn cần phải thật thận trọng trong lúc làm công việc, cũng như khi di chuyển, cố gắng tránh mọi trường hợp có thể dẫn đến những tai nạn, thương tích... Dĩ nhiên không ai muốn nó xảy ra, nhưng nếu có thì các bạn cũng cần bình tĩnh để tìm cách vượt qua. Các bạn hãy nhớ rằng, cho dù tình hình có tồi tệ đến đâu đi nữa, thì chúng ta cũng có thể khắc phục. Khả năng sinh học tự vệ của con người kỳ diệu hơn chúng ta tưởng rất nhiều.
    Có 4 trường hợp gãy xương có thể xảy ra:
    1. Nghi ngờ gãy xương.
    2. Gãy xương kín
    3. Gãy xương hỡ
    4. Bể xương
    Trong mọi trường hợp gãy xương, điều quan trọng nhất là các bạn phải làm bất động ngay tức khắc phần cơ thể có xương bị gãy. Tuy nhiên, vì các bạn đang ở nơi hoang dã, các bạn là cứu thương viên và chính các bạn cũng là y sĩ điều trị, cho nên trước khi cặp nẹp bất động phần cơ thể bị gãy, bằng trực giác, sự cảm ứng và óc phán đoán, các bạn cố gắng sắp làm sao cho hai đầu xương nối với nhau cho thật thẳng (cho dù có làm cho nạn nhân đau đớn), rồi mới băng cứng lại (nếu có vết thương rách da chảy máu, thì để trống chổ đó để xử lý).
    Trong những trường hợp này, nạn nhân có thể bị choáng vì quá đau đớn. Các bạn cố gắng thao tác thật nhanh mọi công đoạn như: cố định xương gãy, băng bó sớm, cầm máu nhanh, ủ ấm chống lạnh, cho uống trà nóng, nước đường, cà phê đậm (nếu có)... đặt nằm chân cao hơn đầu, làm cho nạn nhân được tiện nghi, vui vẻ, an ủi động viên tinh thần nạn nhân. Cho nạn nhân uống những loại cây lá có tính chất an thần, gây ngủ như: Vông nem, Lạc tiên (chùm bao), Ba gạc, trái thuốc phiện khô... hay quấn lá Cà dược rồi hút như hút thuốc để giảm đau, nhưng nếu thấy có triệu chứng ngộ độc thì phải ngưng ngay.

    * Làm thế nào để cố định xương gãy?
    Dùng những dụng cụ có thể làm nẹp như mảnh ván, cành cây, vỏ cây... tuy nhiên, khác với cấp cứu là các bạn có thể chọn bất cứ vật gì để nẹp. Ở đây các bạn phải chọn lựa cẩn thận, vì khi đã nẹp vào rồi thì rất lâu mới được tháo ra, cho nên nẹp phải có những tiêu chuẩn sau:
    - Kích cỡ phải phù hợp với phần cơ thể định nẹp.
    - Chất liệu không gây dị ứng cho da của nạn nhân.
    - Vật liệu phải sạch sẽ, bền chắc.
    (Nếu có thể thì nên dùng vỏ cây gạo để bó chỗ xương gãy, vì vỏ cây gạo có tính chất liền xương).
    Trước khi nẹp để làm bất động nơi vết gãy, các bạn hãy đệm chung quanh vết thương (nhất là những chỗ có mấu lồi của xương như mắt cá, cùi chõ, cánh tay...) bằng những vật liệu êm và sạch như bông gòn, khăn tay, áo quần, chăn mền... Làm như vậy để khi chúng ta nẹp cứng lại không làm cho nạn nhân bị đau đớn, khó chịu.
    Khi bị gãy xương hở, cần phải sát trùng vết thương thật sạch trước khi kéo nắn về vị trí cũ.

    CỐ ĐỊNH XƯƠNG GÃY:
    * Gãy xương bàn tay hoặc khớp cổ tay:
    - Đặt một cuộn băng hoặc một cuộn vải vào lòng bàn tay, sau khi sửa lại các phần xương gãy.
    - Đặt một nẹp từ bàn tay đến quá cổ tay (cho hơi thừa ở đầu bàn tay).
    - Đắp thuốc, dùng băng cố định bàn tay, cẳng tay vào nẹp.
    - Treo cẳng tay bằng băng tam giác hay băng thường.

    * Gãy xương cẳng chân:
    Các bạn thao tác như cách làm đối với gãy xương cánh tay và cẳng tay. Khi cần thiết phải di chuyển thì phải dùng thêm một cặp nạng..

    * Gãy xương cánh tay, cẳng tay:
    Sau khi kéo xương vào đúng vị trí cũ, sửa cho thật thẳng, rồi đắp thuốc lên, dùng nẹp ép hai bên theo chiều dài xương, dùng băng, dây, vải, khăn... cột lại để cố định. Nếu cần thì treo tay hoặc băng ép vào người bằng băng tam giác, băng thường, mảnh vải...

    * Gãy xương đùi:
    Nếu bị gãy xương đùi, đòi hỏi chúng ta phải có một sự chăm sóc đặc biệt và cẩn thận. Tuyệt đối không nên di chuyển nếu không thật cần thiết.
    Trường hợp này, khi bó nẹp, chúng ta phải bó dài luôn cả phần cẳng chân như hình dưới đây.

    Ghi chú: Những phương pháp bó nẹp cố định xương gãy như trên, chỉ dùng tạm thời trong khi chờ di chuyển nạn nhân đến bệnh viện, nếu các bạn đang ở trong vùng hoang dã, không liên lạc được với xã hội thì sẽ dùng những phương pháp hướng dẫn sau:

    NẮN LẠI CÁC XƯƠNG GÃY

    Trước khi nẹp và bó thuốc để cố định đoạn xương gãy, các bạn phải tìm cách nắn lại các xương gãy (thật ra, công đoạn này là dành cho các nhà chuyên môn ở bệnh viện hay các trạm y tế, nhưng ở nơi hoang dã thì chính các bạn phải tự xoay trở lấy, cho dù đôi khi nó không được hoàn hảo lắm, nhưng còn hơn là không làm gì).
    Nếu các xương có vẻ ít nhiều ở tư thế đúng, không thấy biến dạng thì tốt hơn là đừng di động chúng, cứ để yên như thế mà đắp thuốc và nẹp cố định.
    Nếu các xương rõ ràng ở tư thế không đúng, chỗ gãy biến dạng... Nếu chỗ gãy còn mới, các bạn nên nắn hay kéo cho thẳng trước khi bó (tuy rất đau đớn, nhưng các bạn hãy động viên nạn nhân cố gắng chịu đựng, vì xương càng nắn sớm bao nhiêu thì càng dễ dàng và ít đau hơn bấy nhiêu).
     
  17. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    * Làm thế nào để nắn xương cổ tay bị gãy?
    Cần có 2 người để thao tác thì dễ dàng hơn. Trước tiên, các bạn dùng khăn hay vải cột lõng cánh tay nạn nhân vào một gốc cây hay một trụ cố định. Một người nắm bàn tay nạn nhân kéo mạnh và dứt khoát trong khoảng từ 5-10 phút, để các đầu xương gãy giãn ra và chạm đầu với nhau.

    Người thứ hai nhẹ nhàng nắn lại các đầu xương cho ngay ngắn.

    * Bao lâu thì các xương gãy liền lại?
    Chỗ gãy càng nặng, nạn nhân càng già thì sự bình phục càng chậm. Trẻ em thì liền một cách nhanh chóng hơn. Xương cánh tay thì khoảng một tháng, xương cẳng chân cần giữ độ 2 tháng.

    MỘT SỐ BÀI THUỐC CHỮA GÃY XƯƠNG

    Có rất nhiều bài thuốc chữa gãy xương nhưng ở đây chúng tôi chỉ chọn một số bài thuốc giản dị, dễ tìm kiếm, dễ chế biến, dễ sử dụng. Có 2 loại: Thuốc bó ngoài và thuốc uống trong.

    BÀI SỐ 1: Thuốc bó bột ngoài
    Công thức:
    - Bột củ nâu 1kg
    - Cơm nếp đủ bó vết thương
    Tác dụng: Hành huyết, tiêu sưng, giam đau, liền xương.
    Chế biến: Củ nâu (nâu nhựa tốt hơn nâu đỏ) gọt vỏ thô, thái mỏng, phơi hoặc sấy khô, tán bột, bỏ vào chai hoặc bao nylon hàn kín, bảo quản nơi khô ráo.
    Cách dùng: Cứ 100gr cơm nếp nấu hơi nát thì cho 20gr bột củ nâu, hai thứ giã đều, khi cơm còn nóng dạt thành một bánh dài đủ bó chỗ gãy, dàn thuốc lên giấy dầu hay vải gạc hoặc lá chuối, bó vào chung quanh chỗ gãy, đặt nẹp, băng cố định cho thật chặt, hai ngày thay thuốc một lần. Nếu không có bột củ nâu khô thì dùng củ nâu tươi thái mỏng, giã cho thật nhỏ, trộn với cơm nếp như trên.

    BÀI SỐ 2: Lá cây thanh táo tươi
    Công thức: Lá và đọt non của cây thanh táo (còn gọi là tiếp cốt thảo, trường sinh thảo)
    Tác dụng: Thanh nhiệt, tiêu viêm, hành huyết, giảm đau, liền xương.
    Chế biến: Lá và đọt non (bỏ cành và cuống), rửa sạch, giã nhỏ.
    Cách dùng: Bỏ thuốc vào chỗ gãy, đặt nẹp, băng cố định thật chặt. Khi đã ổn định, mỗi ngày thay thuốc một lần.

    BÀI SỐ 3: Vỏ cây tươi
    Công thức:
    - Vỏ cây gạo tươi 60%
    - Vỏ cây núc nác tươi 40%
    Tác dụng: thanh nhiệt, tiêu viêm, hành huyết, giảm đau. Chủ trị gãy xương, sai khớp, tụ máu, chấn thương.
    Chế biến và sử dụng: Vỏ hai loại cây trên (liều lượng đủ dùng, nhưng phải theo tỉ lệ trên) lấy về gọt bỏ lớp vỏ thô bên ngoài, rửa sạch, thái mỏng, giả thật nhuyễn, bó vào chỗ gãy. Cách băng bó như các bài trên. Hai ngày thay thuốc một lần.
    Ghi chú: Nếu không có vỏ núc nác thì dùng 100% vỏ cây gạo cũng rất hiệu quả.

    BÀI SỐ 4: Lá cây tươi
    Công thức: Lá cây tơ mành
    Tác dụng: thanh nhiệt, tiêu viêm, sát trùng. Chủ trị gãy xương, chấn thương, sưng tấy, các vết thương ngoài da.
    Chế biến và sử dụng: Lá cây tơ mành (còn gọi là mạng nhện, dây chỉ) hái tươi, rửa sạch, giã nát, bó như các bài trên.

    BÀI SỐ 5: Thuốc rượu (thuốc uống)
    Công thức:
    - Nhựa cây si 50cc
    - Rượu trắng 40 độ 150cc (3/5 xị)
    Chủ trị: Chấn thương, gãy xương, sai khớp, tụ máu, sưng đau.
    Chế biến và sử dụng: Nhựa si và rượu hòa lẫn cho tan. Người lớn uống mỗi ngày một liều, chia làm 3 lần. Thiếu niên dưới 15 tuổi uống nửa liều.
    Chú ý: Nếu không có nhựa si thì dùng tua si (là những sợi từ trên cành rũ xuống), cắt khoảng 100gr tua còn non cho vào ấm nước đun sôi thật kỹ rồi hòa với rượu uống lúc còn ấm.

    BÀI SỐ 6: Thuốc sắc
    Công thức:
    - Củ nghệ già 20gr
    - Vỏ cây gạo 20gr
    - Rễ cỏ xước 15gr
    - Rễ lá lốt 15gr
    Chủ trị: Gãy xương, bong gân, sai khớp, sưng đau, chủ yếu dùng khi tổn thương 2 chi dưới.
    Chế biến và sử dụng:
    - Củ nghệ thái mỏng, phơi khô, sao qua
    - Vỏ cây gạo gọt bỏ vỏ thô, thái mỏng, sao qua
    - Rễ cỏ xước và lá lốt rửa sạch, thái ngắn, không sao.
    Cho tất cả vào ấm, sắc 2 nước, mỗi lần đổ 3 chén nước sắc, còn một chén. Hai nước hòa lại chia làm 3 lần uống trong ngày. Mỗi ngày uống một thang. Khi uống có thể pha thêm rượu càng tốt.

    CHẤN THƯƠNG SAI KHỚP

    Khi bị va chạm hay chấn thương mạnh bất thường làm cho đầu xương trật ra khỏi ổ khớp một phần hay toàn bộ, làm cho khớp không hoạt động được.
    Khi bị sai khớp, bao khớp có thể bị rách nhiều hay ít, dây chằng bị đứt, rách hoặc bong ra, các cơ và mạch máu ở vùng ổ khớp cũng bị tổn thương.
    * Triệu chứng:
    - Đau nhức liên tục, lúc đầu đau nhiều, về sau lần lần đau ê ẩm, khi chạm vào khớp thì đau dữ dội.
    - Không thể cử động được hoặc cử động khó khăn.
    - Ổ khớp biến dạng, sờ thấy đầu xương bật ra ngoài ổ khớp...
    - Chung quanh sưng vù, tím bầm...

    * Điều trị: Nên tìm cách điều trị ngay, để càng lâu càng khó khăn. Chủ yếu là phải dùng phương pháp nắn đưa ngay đầu xương trở lại ổ khớp và bó thuốc tiêu sưng, giảm đau và cố định khớp.
    Tránh dùng sức mạnh ở khớp xương đó một thời gian đủ để cho khớp khỏi hẳn.

    CÁC PHƯƠNG PHÁP NẮN SAI KHỚP

    1. Nắn sai khớp xương cổ:
    Để nạn nhân ngồi thẳng đầu, người cứu thương đứng phía sau, hơi rùn xuống. Hai đầu gối áp chặt vào hai cạnh sườn để giữ chắc nạn nhân. Hai tay ôm đầu nạn nhân nâng lên và xoay đi xoay lại nhè nhẹ và lựa chiều xoay mạnh đưa vào khớp.

    2. Nắn sai khớp xương vai:
    Để nạn nhân nằm ngửa dưới đất, người cứu thương nằm xuống bên cạnh nạn nhân (phía bị sai khớp). Để gót chân của bạn vào nách nạn nhân làm điểm tựa và hai tay kéo mạnh tay nạn nhân với một lực đều đặn trong vòng từ 5-10 phút. Sau đó bỏ chân ra và khép cánh tay vào người của họ, nếu nghe một tiếng “cụp” là xương đã vào ổ khớp. Tiến hành bó thuốc và băng cố định.

    Sau khi khớp vai đã vào vị trí, nên bó cánh tay chặt vào chân. Giữ như vậy trong một tháng cho khớp không trật lại một lần nữa. Để để phòng khớp vai bị liệt cơ, mỗi ngày nên tháo ra vài lần, mỗi lần vài phút. Khi tháo ra, nên khẽ di động cánh tay nhẹ nhàng theo những vòng tròn hẹp.

    3. Nắn sai khớp xương khủy tay:
    Để nạn nhân nằm dưới đất, dùng một cái khăn hay miếng vải cột ở giữa cánh tay bị sai khớp, giao cho một người kéo lại hoặc buộc vào một gốc cọc.
    Cần 2 người để thao tác: người phụ dùng tay phải nắm ngón tay cái, tay trái nắm 3 ngón giữa của nạn nhân, vừa kéo xuống vừa đưa dần khuỷu gấp vào thành góc 90o.
    Người nắn ở phía sau khuỷu, dùng 2 ngón tay ấn trực tiếp vào mỏm khuỷu, vừa ấn xuống dưới vừa đẩy ra phía trước, đồng thời các ngón tay giữa ấn vào phía trước, kéo dần đầu dưới xương cánh tay ra sau đưa vào ổ khớp.

    4. Nắn sai khớp xương cổ tay:
    Để nạn nhân ngồi đặt tay lên bàn, một người ngồi phía sau nạn nhân, hai tay nắm chặt cổ tay nạn nhân vừa kéo về phía sau vừa kềm cứng. Người nắn nắm bàn tay vừa kéo vừa lựa chiều đưa vào khớp rồi bó thuốc, băng cố định.

    Các khớp khác như háng, đầu gối, cổ chân... phương pháp nắn cũng tương tự như trên, các bạn nên linh động mà thao tác.
    Trường hợp bị sai khớp xương hay bong gân ở cổ chân, nếu cần đi lại, các bạn hãy sử dụng một đoạn tre một đầu có mắt, cắt theo hình bên để làm nẹp cố định, giúp đi lại mà không làm thương tổn thêm (nên đi kèm theo nạng)

    CÁC BÀI THUỐC TRỊ SAI KHỚP VÀ BONG GÂN

    Bong gân cũng là thương tổn do chấn thương mạnh trực tiếp hay gián tiếp vào khớp, nhưng không làm sai khớp hay gãy xương, mà chỉ có thương tổn các bao hoạt dịch, bao khớp và các dây chằng.
    Triệu chứng: Chủ yếu là sưng đau, bầm tím, cử động hạn chế.
    Các bài thuốc bó ngoài dùng để điều trị gãy xương đều có thể dùng cho bong gân hoặc sai khớp.
    Kinh nghiệm về điều trị chấn thương, sai khớp, bong gân thì khá phong phú. Chúng tôi đưa ra một vài bài đơn giản.

    Bài số 1: Lá hay quả cây Ngái tươi
    Chế biến và sử dụng: Quả hay lá cây Ngái liều lượng vừa đủ dùng, rửa sạch, giã nhỏ, cho ít rượu vào, sao chín, đổ ra vải xô, túm lại chườm vào chỗ đau (chú ý chườm nhanh tay để khỏi bị phỏng). Khi nguội đem ra sao lại cho nóng rồi chườm tiếp. Làm đi làm lại vài ba lần. Sau đó, khi thuốc còn ấm thì dàn mỏng bó vào chỗ sưng, băng cố định. Mỗi ngày thay thuốc một lần.

    Bài số 2: Cây Bớp bớp
    Chế biến và sử dụng: Dùng đọt non và lá rửa sạch, giã nhỏ, đem sao chín rồi cũng chườm và đồ như bài số 1. Mỗi ngày thay thuốc một lần.

    ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ BỆNH THÔNG THƯỜNG

    Người ta có thể chữa hầu hết các bệnh thông thường lúc mới phát sinh bằng một toa thuốc duy nhất gọi là:

    TOA CĂN BẢN:
    Gồm 10 vị thuốc
    1 - Rễ cỏ tranh 8g
    2 - Rau má 8g
    3 - Cỏ mực 8g
    4 - Cỏ mần chầu 8g
    5 - Cam thảo đất 8g
    6 - Ké đầu ngựa 8g
    7 - Lá muồng trâu 4g
    8 - Củ sả 4g
    9 - Vỏ quít 4g
    10 - Gừng tươi 3 lát
    10 vị thuốc trên rất dễ tìm kiếm, tuy nhiên nếu không có, chúng ta có thể thay thế một số vị mà hiệu quả vẫn không thay đổi.
    Thí dụ:
    - Nếu không có Muồng trâu, các bạn có thể thay thế bằng vỏ cây Bông sứ, hạt Bìm bìm, cây Chút chít
    - Nếu không có Rễ tranh, có thể dùng Mã đề, Râu bắp, vỏ trái Cau, Dứa dại, Trạch tả.
    - Nếu không có Rau má, có thể thay thế Râu mèo, Actisô, Nhân trần, Dành dành, Mướp, Cúc tần.
    - Nếu không có Cỏ mực, có thể dùng Huyết kê đằng, Sâm đại hành, lá Huyết dụ.
    - Nếu không có Cam thảo đất thì dùng Cam thảo dây, Mía.
    - Nếu thiếu cỏ mần chầu thì thay bằng lá Dâu tằm, Dây kim ngân.
    - Nếu thiếu Ké đầu ngựa thì dùng Ké hoa đào, Ké hoa vàng, Ô rô nước
    - Nếu thiếu vỏ Quýt thì thay bằng vỏ Cam, vỏ Chanh, vỏ Bưởi.
    - Nếu thiếu củ Gừng thì dùng củ Riềng
    - Nếu thiếu củ Sả thì dùng củ Bồ bồ (Xương bồ).
    Tất cả các vị trên tổng cộng khoảng 60g. Cho thêm vào khoảng hơn một lít nước, đun sôi trên lửa cho đến khi còn lại chừng một chén rưỡi nước thì rót ra chia làm 3 phần, uống vào sáng, trưa, và chiều tối, mỗi lần uống một phần.
    Toa căn bản là một đơn thuốc gốc, dùng làm nền tảng, rồi thêm hay bớt vị hoặc liều lượng là tùy theo những triệu chứng của bệnh nhân cũng như kinh nghiệm của người thầy thuốc.

    PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÓ

    Khi mà các phương tiện vật chất cũng như thuốc men thiếu thốn như trong các vùng hoang dã, thì có lẽ đánh gió là phương pháp chữa bệnh khả thi và hiệu quả nhất. Đánh gió đúng cách, các bạn có thể chữa trị các bệnh thông thường như: trúng gió, cảm nắng, cảm lạnh, ói mửa, tiêu chảy, đau nhức, mệt mỏi...

    * Kỹ thuật:
    - Đánh nóng từ một chỗ rồi loang dần theo hệ thống thần kinh như là gáy, đầu, ngang hai vai: Trị sổ mũi, làm cho cổ họng giảm bớt buồn nôn.
    - Đánh gió khoảng giữa sống lưng: Làm giảm đau bao tử.
    - Đánh từ lưng quần xuống xương khu: Làm bớt đau bụng tiêu chảy, bớt đau bụng quặn.
    - Áp dụng cho những trẻ em có triệu chứng: quấy phá, khó chịu, chân tay lạnh, mất ngủ, ăn không tiêu, đau bụng, khóc dai dẳng hàng giờ, toát mồ hôi lạnh... (nhưng không được đánh gió khi nghi ngờ trẻ bị sốt xuất huyết).

    * Phương pháp:
    - Chỗ đánh gió: thoáng mát nhưng không lộng gió
    - Tư thế: Nằm sấp, vén áo (không cần cởi)
    - Dụng cụ: dầu cù là, dầu nóng, lát gừng
    - Cách đánh: Lúc đầu là nhẹ trên mặt da, rồi càng lúc càng mạnh dần (nhưng không nên làm đau), xoa nhẹ khắp lưng, vuốt mạnh hai bên sống lưng, băm băm dài theo xương sống, cuối cùng xoa nhẹ khắp lưng, thời gian từ 5-10 phút (trung bình là 10 phút, nếu ngắn hơn thì ít kết quả, nếu lâu hơn thì cũng tốt).

    * Lưu ý:
    - Người đánh gió nên nhớ rằng: nếu đánh gió để chữa các chứng bệnh thì làm sao cho người bệnh phải đổ mồ hơi thì mới khỏe được.
    - Nên dùng gừng để đánh gió hơn là cù là hoặc dầu nóng. Gừng cắt mặt dập thớ (cắt ngang) để nước gừng thấm vào da. Gừng gây nóng dịu, sâu, kéo dài...
    Dầu nóng thì nên dùng dầu tinh chất bạc hà.
    Sau khi đánh gió xong thì phải uống thêm thuốc thích hợp với chứng bệnh, uống đúng liều lượng với một ly nước giải cảm.

    CÁC CÂY THUỐC DỄ TÌM ĐỂ CHỮA CÁC BỆNH THÔNG THƯỜNG
     
  18. NhokLinh

    NhokLinh Member

    Tham gia ngày:
    7/4/08
    Bài viết:
    750
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    31. Du lịch bằng xe gắn máy

    Do đặc trưng các chuyến đi bằng xe máy có đoạn đường cũng khoảng trên dưới 300 – 1000 km, chuẩn bị tốt và kỹ càng là cách tốt nhất để chuyến đi thành công và an toàn.
    1. Chuẩn bị xe:
    - Chuẩn bị chu đáo, nên kiểm tra và bảo dưỡng toàn bộ xe. Cụ thể như thay nhớt trước và sau khi đi, xem xét lại kính chiếu hậu, săm xe thủng 3 lỗ phải thay luôn, thắng của xe không được sâu quá cũng không được cứng quá.
    - Các loại xe thông thường là tốt nhất, như Jupiter, Future, Wave…do các xe này bền, thông dụng rất dễ tìm chỗ sửa chữa, không nên đi xe quá cũ, hơi yếu như vespa cổ...
    - Đi dọc đường nên đổ đầy xăng khi có thể vì không biết phía trước có cây xăng hay không.
    2. Các chuẩn bị cho việc đi xe:
    - Mũ bảo hiểm: nhất thiết phải có, đơn giản là bảo vệ cho chính mình và cũng tránh phiền hà với cảnh sát giao thông. Nên mua loại mũ có hàm, kính kín, lúc xe chạy, người lái sẽ đỡ bị gió bụi, đỡ mệt mỏi và độ an toàn được nâng lên.
    - Áo đi mưa: vì mưa có thể xảy ra bất cứ lúc nào trên đường đi, đặc biệt vùng núi rất dễ có mưa cục bộ trong một khoảng núi mà rất to, không có chỗ trú. Chúng ta nhớ để áo mưa ở nơi dễ lấy như gài vào dây buộc đồ, giỏ xe, hoặc balô có những ngăn nhỏ, không nên để trong cốp xe, chằng buộc các thứ cẩn thận lên, khi mưa lấy xong áo mưa thì người cũng ướt hết.
    - Nên mang theo áo mưa phủ mặc cùng với quần mưa trong bộ quần áo mưa, như thế sẽ không bị ướt quần, ủng đi mưa thì có thể mua loại ủng mỏng bằng nilon có trong các siêu thị. Nên có một tấm áo mưa để phủ cho đồ phía sau.
    - Nên đi giày và mặc áo vải thô khi đi đường vì chúng sẽ làm giảm nguy cơ bị xây xát nếu chúng ta bị ngã xe. Giày vừa giữ ấm chân vừa đảm bảo khi các tình huống xảy ra phải chống chân, thắng gấp, nhất là khi dừng xe tránh bị gai cắm vào chân, không nên đi giày cao gót và các loại dép. Luôn mang theo 1 đôi dép lê dự phòng để đi tắm, khi trời mưa… Mùa hè nên mặc áo pull bên trong và mặc áo khoác bên ngoài, áo khoác sẽ giúp cân bằng nhiệt của cơ thể.
    - Nên đeo găng tay, chú ý chọn mua loại thoáng mà dày và... rẻ. Đeo găng tay không chỉ để tránh nắng mà người lái cũng sẽ đỡ mỏi tay hơn nhiều.
    - Nên chằng buộc balô cẩn thận, thường là 2 người có 2 cái ba lô, một chiếc để ở giữa xe, một chiếc buộc sau xe, không nên đeo ba lô khi đi đường xa, làm giảm sức khoẻ của người đi xe, trừ túi máy ảnh và vật dụng tùy thân. Mỗi ba lô không nên đựng quá 5kg, nhớ bỏ theo đèn pin, dao cá nhân có bao, điện thoại + sạc pin, thẻ nhớ + pin + sạc pin của máy ảnh. Mỗi người cũng nên chuẩn bị túi thuốc cá nhân để tránh phụ thuộc vào thuốc chung của đoàn
    – (Lưu ý ai cần thuốc riêng đặc trị), đồ ăn khẩn cấp: C sủi, sô cô la (Snick bar là một loại dễ mang và không bị chảy) hoặc pho mát (có loại Phomát sợi rất ngon và khô nhiều năng lượng), kẹo gừng ( tốt cho những vùng lạnh), nước uống được mua ở từng chặng, dây thừng cuộn (để kéo xe nếu bị sa lầy).
    - Chúng ta cũng không thể bỏ quên chứng minh thư, giấy tờ xe và bằng lái xe. Đặc biệt là tiền mặt: chúng ta không nên mang nhiều, cứ tính 100.000 – 150.000 đồng/ngày (luôn cả tiền xăng). Còn lại để trong thẻ ATM hoặc cất vào túi riêng, không để trong ví.
    3. Cách tổ chức đi xe:
    Tốt nhất là 4, 5 xe một nhóm, nếu đoàn đông thì nên chia ra, tùy theo mỗi đoàn. Mỗi nhóm nên có một người kinh nghiệm hoặc tìm hiểu kỹ cung đường dẫn đầu và các thành viên khác không được vượt qua người này. Đến ngã ba thì người dẫn đầu sẽ dừng lại và chỉ đường cho các xe tiếp theo. Người cuối cùng là người cầm đồ sửa xe. Và nếu đoàn đông gồm nhiều nhóm thì không nên vượt qua xe đầu tiên dắt đường cho cả đoàn.
    Trước khi khởi hành, mọi người nên nắm chắc cung đường đi. Nghĩa là các thị trấn mình sẽ qua, đề phòng lạc nhóm thì biết đường hỏi thăm. Việc này khá quan trọng, trên đường đi khoảng 30 km lại có các điểm rẽ ngang rẽ dọc, đoàn khoảng 5 xe lại rải ra trên cả một quãng dài không đi cùng nhau thì tốt nhất là biết các thị trấn xe qua để hỏi người đi đường.
    Một điểm nữa không kém quan trọng: mỗi xe nên cách nhau ít nhất 6-10 m, chẳng may nếu xe trước có bị ngã hoặc nổ lốp thì xe sau sẽ không cán phải, mà không được đi cạnh nhau (song song) vì sẽ rất khó tránh, hạn chế nói chuyện với xe khác khi đi đường. Các nhóm nên chặt chẽ hơn một chút về thời gian, bản thân từng người một nên cố gắng thu xếp công việc cá nhân trong chuyến đi sao cho nhanh nhất để tránh ảnh hưởng tới đoàn. Như thế đi mới đảm bảo được lịch trình và thăm thú được nhiều nơi, và hay nhất là tránh việc đi về ban đêm, tầm nhìn hạn chế nên không an toàn, lại dễ lạc đường.
    Mỗi một xe nên có bản đồ (tờ photo có đánh dấu đường đi bằng bút đỏ) và lịch trình chi tiết, số điện thoại của các thành viên, trưởng đoàn, người liên lạc tại điểm đến để nắm thông tin và chủ động nhất với các tình huống bất trắc không như ý muốn.
    4. Cách đi xe máy trên đường:
    - Đi ban đêm không nên bật pha, mà dùng cốt, nhất là những xe đèn sáng quá làm chói mắt người đi ngược chiều gây nguy hiểm cho người khác.
    - Gặp ô tô con mà đèn sáng quá chiếu vào mặt mình, không nên đi sát bên đường, vì bên đường hay có người đi xe đạp hoặc ô tô đỗ, hoặc đống cát. Tốt nhất là giảm tốc độ và cố gắng giữ thẳng hướng đi của mình. Có thể phát hiện ra xe ngược chiều ở khúc cua thông qua ánh đèn pha, luôn luôn ng đi tốc độ quá cao. Đi xe gắn máy, quan trọng nhất là an toàn. Chúng ta phải tuân thủ luật giao thông khi đi trên đường để bảo đảm an toàn. Chuyện ai đi giỏi hơn ai, không thành vấn đề.

    Cuối cùng cũng xong