Đối tác - Liên kết

“Tứ bất tử” - những truyền thuyết gắn bó với Thăng Long – Hà Nội

Thảo luận trong '2. Điểm Tham quan - Nghỉ dưỡng' bắt đầu bởi yeudulich.vn, 10/9/10.

  1. yeudulich.vn

    yeudulich.vn New Member

    Tham gia ngày:
    23/6/10
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Nguồn: Văn hóa
    Trong những truyền thuyết liên quan tới tín ngưỡng thờ phụng đã đi vào tâm khảm của người Việt Nam, thì “Tứ bất tử” được coi là một tín ngưỡng đặc biệt. Đặc biệt, truyền thuyết này có nhiều điều liên quan tới địa danh và con người Hà Nội.
    “Tứ bất tử” là một huyền thoại về việc nhân dân ta tôn vinh và thờ phụng “bốn vị thánh không bao giờ chết” (Tứ bất tử): Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Thánh Chử Đồng Tử và Thánh mẫu Liễu Hạnh. Các vị thánh thần mà dân gian tôn sùng thì rất nhiều, nhưng chỉ có 4 vị được đặt riêng ra, liệt vào hạng “siêu thánh”.

    1. Thánh Tản Viên:

    [​IMG]
    Đền thờ Thánh Tản Viên trên núi Tản Viên thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội.

    Theo các nhà nghiên cứu Thánh Tản Viên được coi là vị thánh được nhắc tới đầu tiên trong 4 vị thánh. Có lẽ đây là vị thánh liên quan tới truyền thuyết về việc bảo tồn, giữ gìn đất nước trong cuộc đấu tranh đối chọi với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm của dân tộc.

    Truyện lấy bối cảnh thời Hùng Vương thứ 18, kể lại cuộc kén rể đặc biệt của vua Hùng cho người con gái tên Mỵ Nương của mình. Hai nhân vật trung tâm của truyện là Thủy Tinh (Thần Nước) và Sơn Tinh (Thần Núi) hay còn gọi là Thánh Tản Viên. Hai người đến xin kén rể, đều mang trong mình sức mạnh phi thường. Vua Hùng rất khó xử về việc nên gả con gái cho ai, nên ông đã ra quyết định ai dâng những lễ bao gồm voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao thì ông sẽ gả con gái cho. Sơn Tinh đã tới trước nên đã lấy được Mị Nương. Khi Sơn Tinh trở thành con rể vua Hùng, một cuộc chiến lớn đã xảy ra giữa hai người. Câu chuyện về cuộc chiến ngàn năm của Sơn Tinh và Thủy Tinh là một cách lý giải của dân gian về những đợt lũ lụt xảy ra hàng năm mà nhân dân ta phải gánh chịu, nhất là cư dân lưu vực đồng bằng sông Hồng (mà Thăng Long là vùng chịu ảnh hưởng khá nặng nề).

    Trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là vị thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung.

    2. Thánh Gióng


    [​IMG]
    Đền Giòng tại làng Gióng, Sóc Sơn, Hà Nội.
    Còn Thánh Gióng là một vị thánh quá quen thuộc với người dân Việt Nam. Thông qua câu chuyện về một đứa trẻ kì lạ, lên 3 rồi mà chẳng biết nói cười. Nhưng khi giặc Ân từ phương Bắc tới thì cậu bé tầm thường kia bỗng nhiên đổi khác, đứng dậy nói năng hết sức dõng dạc và mau chóng lớn thành một tráng sĩ. Vị tráng sĩ này cưỡi ngựa sắt, đội nón sắt, cầm gậy sắt ... một mình xông ra giữa trận tiền. Đánh tan giặc Ân, vị anh hùng bỏ lại tất cả, một mình một ngựa bay thẳng lên trời.

    Đây là bài ca hào hùng nhất về truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam. Những con người bình dị, lớn lên từ nghèo khó, nhưng khi đất nước lâm nguy thì sẵn sàng xả thân, hy sinh vì nghĩa lớn. Truyền thuyết sử thi giàu chất anh hùng ca này vẫn còn lưu giữ bằng các di tích rất phong phú tại làng Gióng, Sóc Sơn, Hà Nội.

    3. Thánh Chử Đồng Tử

    [​IMG]
    Đền thờ Chử Đồng Tử bên bờ Sông Hồng.
    Truyền thuyết thứ ba là truyền thuyết về Thánh Chử Đồng Tử. Đây là câu chuyện về tình duyên giữa công chúa Tiên Dung với chàng trai nghèo khổ Chử Đồng Tử.

    Tương truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại Chử Xá (huyện Văn Giang, Hưng Yên). Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.

    Thời ấy Vua Hùng Vương thứ ba có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đi ngang qua nơi Chử Đồng Tử sống. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử đang chốn. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng. Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung.

    Một hôm có người bày cho cách ra ngoài buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Tiên, Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chàng bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.

    Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dân hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.

    Nghe tin, Vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà Vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.

    Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là chợ Hà Thị. Đến nay theo thống kê có tới 72 làng lập điện thờ Chử Đồng Tử, rải rác ở hai bờ tả ngạn sông Hồng. Trong đó, có một đền thờ lớn lập tại thôn Chử Xá, Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội.

    4. Thánh Liễu Hạnh (bà chúa Liễu Hạnh)

    [​IMG]

    Vị thánh cuối cùng trong bốn vị, có tên thật là Liễu Hạnh, sinh ra vào thời Lê (1557). Liễu Hạnh Công chúa là một trong những vị thần quan trọng nhất của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.

    Ngày xưa, vào năm Thiêu Hựu, đời Hậu Lê (1557) ở thôn An Thái, làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay, có một gia đình nhà họ Lê. Phu nhân Lê Thái Công mang thai gần đến kỳ sinh nở. Một hôm, Ông Lê Thái Công bỗng ngã ra bất tỉnh, rồi thấy mình được đưa lên Thiên Đình. Tại đây, Thái Công thấy mình dự một bữa tiệc lớn, do Ngọc Hoàng khoản đãi. Ông thấy Công Chuá Quỳnh Nương lỡ tay làm rơi chén ngọc, bị đày ải xuống trần gian. Khi tỉnh dậy, ông hay tin là phu nhân vừa hạ sinh được một cô con gái. Thái Công sung sướng đặt tên con là Giáng Tiên.

    Lớn lên, Giáng Tiên xinh đẹp thêm giỏi văn thơ, đánh đàn thổi sáo và soạn nhiều bài hát rất hay. Năm 18 tuổi, nàng kết duyên cùng Đào Lang, là con nuôi của một vị quan trí sĩ ở cùng làng.

    Ba năm sau, vào ngày mồng 3 tháng 3, Giáng Tiên đột ngột từ trần. Người ta nói nàng là tiên trở về thượng giới. Tuy nhiên, Ngọc Hoàng thấy nàng chưa hết hạn đi đày, bắt nàng phải trở xuống thế gian. Lần này, nàng xuất hiện dưới lốt một vị nữ thần, đi theo là 2 ngọc nữ Quế Nương và Thị Nương. Theo lệnh thiên đình, 3 vị tiên nữ đã hiện xuống giữa ban ngày ở vùng Phố Cát, tỉnh Thanh Hoá.

    Ba nàng tiên đã lập chỗ trú ngụ giữa một nơi phong cảnh kỳ tú của nước Việt. Chẳng mấy chốc, cả vùng đều biết tiếng các vị tiên nữ, vì những phép linh ứng của 2 nàng. Dân chúng tỏ lòng biết ơn, đã xây một ngôi đền thờ cạnh núi, để thờ phượng. Đền thờ này được gọi là đền thờ Công Chuá Liễu Hạnh. Liễu Hạnh được dân gian tôn sùng là Thánh Mẫu.

    Sau khi Liễu Hạnh về trời, dân gian tin tưởng Bà Chuá Liễu Hạnh, lập đền thờ bà khá trọng thể ở Phủ Giầy, Nam Định, nơi nàng đầu thai. Dân cũng lập đền thờ Bà Chuá Liễu ở Phố Cát và Đền Sòng tại Thanh Hoá, nơi nàng xuống trần lần thứ hai. Tại Hà Nội, Bà được thờ ở Phủ Tây Hồ. Hàng năm, đến ngày giỗ của Công Chuá Liễu Hạnh, người ta tưng bừng rước lễ, dân chúng đã đi trảy hội rất đông.

    Tục thờ Tứ bất tử là một tục lệ mang màu sắc tín ngưỡng nhưng lại phản ánh đậm nét truyền thuyết lịch sử và có giá trị văn hoá rất sâu sắc. Bốn vị thánh là sức mạnh đời sống tinh thần của dân tộc trong mọi hoàn cảnh từ xưa tới nay. Nếu có dịp đến Hà Nội, mời bạn đến thăm 4 vị Thánh bất tử mà dân gian tôn sùng.