Đối tác - Liên kết

Ý Nghĩa của các pho tượng

Thảo luận trong 'Ảnh tổng hợp' bắt đầu bởi huycuong, 29/5/10.

  1. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Quan Âm Bồ Tát

    [​IMG]

    Quan Âm (zh. 觀音, ja. kannon), nguyên là Quán Thế Âm nhưng do tránh chữ Thế trong tên nhà vua Đường là Lý Thế Dân nên gọi là Quan Âm hoặc Quán Âm, là tên của Bồ Tát Quán Thế Âm (zh. 觀世音, sa. avalokiteśvara) tại Trung Quốc, Việt Nam và các nước lân cận. Phật tử Trung Quốc thường thờ cúng Quan Âm bên cạnh các vị Bồ Tát Phổ Hiền (zh. 普賢, sa. samantabhadra), Địa Tạng (zh. 地藏, sa. kṣitigarbha) và Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. mañjuśrī). Đó là bốn vị Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc.

    Quan Âm hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm. Quan Âm cũng hay được nhắc tới bên cạnh Phật A-di-đà (sa. amitābha) và trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm 25 với tên Phổ môn, các công hạnh của Bồ Tát trình bày rõ ràng và tán thán. Tại Trung Quốc và Việt Nam, Quan Âm hay được diễn tả dưới dạng nữ nhân.

    Trong thần thoại, văn học bác học (như tác phẩm Tây Du Ký của Trung Quốc), văn học dân gian, hay trong kinh sách nhà Phật (ví dụ phẩm Phổ môn), thì Quán Thế Âm Bồ Tát được xem là vị Bố Tát có thần lực nhất, chỉ sau Phật Tổ. Điều này có thể là do Quán Âm là vị Bồ Tát cứu độ chúng sanh và là Bồ Tát đặc trưng cho tinh thần của Phật giáo Đại thừa - giác tha, có nghĩa là cứu vớt và giác ngộ người khác - cho nên có thể Phật giáo Đại thừa đã nâng ngài lên tầm quan trọng như vậy, khác biệt với Phật giáo Tiểu thừa. Điều này càng làm tăng lòng sùng kính của người theo đạo Phật đối với Quán Âm. Trong mọi ngôi chùa, thường thì chính giữa là tượng đức Phật Tổ, hai bên là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, tuy nhiên ở ngoài khuôn viên chùa hầu hết đều có tượng đức Phật Tổ hay Quán Thế Âm mà không thấy hoặc ít thấy hơn tượng của các vị Phật hay Bồ Tát khác.

    Tranh tượng thường trình bày Quan Âm dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng phổ biến nhất là dạng một vị Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt. Có khi Quan Âm ẵm trên tay một đứa bé, có khi một đồng tử theo hầu. Người ta cũng hay vẽ Quan Âm hiện trong mây, hoặc cưỡi rồng trên thác nước. Hình ảnh Quan Âm đứng trên một hải đảo cứu người bị nạn cũng phổ biến, biển cả tượng trưng cho Luân hồi. Tay Quan Âm thường cầm hoa hoa sen hay bình nước Cam lồ.

    Danh xưng Quán Thế Âm là xuất phát từ một truyền thuyết của Phật giáo, tin rằng những người tu hành đạt tới chính quả, thì ngũ giác của họ có thể dùng chung được. Nghĩa là họ có thể dùng tai để "nhìn" thấy hình ảnh, dùng mắt để "nghe" thấy âm thanh, lưỡi có thể ngửi được v.v. Theo lòng tin này, thì danh xưng Quán Thế Âm Bồ Tát có nghĩa là: vị Bồ Tát luôn "nhìn thấy" tiếng ai oán, đau khổ trong bến mê của chúng sinh và sẵn sàng cứu giúp hay nói pháp khi cần.

    Theo quan niệm Trung Quốc, Quan Âm ngự tại Phổ-đà Sơn, miền Đông Trung Quốc, đó là một trong Tứ đại danh sơn, là bốn trú xứ của bốn Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc.

    Tại Trung Quốc - đến thế kỉ 10 - Quan Âm còn được giữ dưới dạng nam giới, thậm chí trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta thấy tượng Quan Âm để râu. Đến khoảng thế kỉ thứ 10 thì Quan Âm được vẽ mặc áo trắng, có dạng nữ nhân. Có lẽ điều này xuất phát từ sự trộn lẫn giữa đạo Phật và đạo Lão trong thời này. Một cách giải thích khác là ảnh hưởng của Mật tông (xem Tantra) trong thời kì này: đó là hai yếu tố Từ bi (sa. maitrī-karuṇā) và Trí huệ (sa. prajñā) được thể hiện thành hai dạng nam nữ, mỗi vị Phật hay Bồ Tát trong Mật tông đều có một "quyến thuộc" nữ nhân. Vị quyến thuộc của Quán Thế Âm được xem là vị nữ thần áo trắng Đa-la (sa. tārā), và Bạch Y Quan Âm là tên dịch nghĩa của danh từ đó. Kể từ đó quần chúng Phật tử Trung Quốc khoác cho Quan Âm áo trắng và xem như là vị Bồ Tát giúp phụ nữ hiếm muộn.

    Một trong các lí do đó là đối với Phật Giáo, Phật không phân biệt nam hay nữ. Khác với các thần thoại sơ khai quan niệm các vị thần có giới tính và co sự sinh sản, Phật giáo và các tôn giáo lớn trên thế giới không cho rằng thần của họ có giới tính và sự sinh sản. Do đó việc quan niệm Quán Âm là nam hay nữ không phải là vấn đề quan trọng trong Phật giáo. Vả lại, theo phẩm Phổ môn, khi muốn cứu vớt hoặc giác ngộ cho chúng sinh, Quán Âm có thể hóa thành 32 sắc tướng[1] như Phật, Bồ Tát, Càn-thát-bà, thiện nam, tín nữ v.v tùy theo đối tượng để cứu giúp chúng sanh.

    Có rất nhiều huyền thoại về Bồ Tát Quan Âm. Theo một huyền thoại Trung Quốc thì Quan Âm là con gái thứ ba của một nhà vua. Lớn lên, mặc dù vua cha ngăn cản nhưng công chúa quyết đi tu. Cuối cùng vua nổi giận, sai đem giết nàng. Diêm vương đưa nàng vào địa ngục, ở đó công chúa biến địa ngục thành Tịnh độ, cứu giúp người hoạn nạn. Diêm Vương thả nàng ra và công chúa tái sinh lại trên núi Phổ-đà biển Đông và trở thành người cứu độ cho ngư dân. Đến khi vua cha bị bệnh nặng, nàng cắt thịt đắp lên chỗ bệnh. Nhà vua khỏi bệnh và nhớ ơn, cho tạc tượng nàng. Tương truyền rằng, vì hiểu lầm ý của nhà vua mà người ta tạc nên bức tượng nghìn tay nghìn mắt, được lưu truyền đến ngày nay.

    Tại Trung Quốc, các ngư dân thường cầu nguyện Quan Âm để được bình an trong các chuyến đi đánh cá. Vì thế có Quan Âm cũng có biệt hiệu "Quan Âm Nam Hải".
     
  2. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Phật Di Lặc.

    [​IMG]

    Đức Di Lặc là một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp (Bốn vị Phật trong Hiền kiếp đã ra đời, kể ra sau đây: 1. Đức Cấu Lưu Tôn, 2. Đức Câu Na Hàm, 3. Đức Ca Diếp, 4. Đức Thích Ca Mâu Ni) để nối ngôi Phật Thích Ca, ra đời mà giáo hóa chúng sanh.

    Nhưng số kiếp chưa đến, Ngài còn ở trên cung Trời Đâu Suất, thường hay hóa thân trong mười phương thế giới mà thuyết pháp độ sanh.

    Khi Ngài ứng tích tại Song Lâm, thì tên của Ngài là: Phó Đại Sĩ, và lúc Ngài hóa thân ở Nhạc lâm, thì hiệu của Ngài là: Bố Đại Hòa Thượng.

    Công việc hành tàng bước đường lai khứ trong hai khoảng chuyển sanh ấy, nào là lời phương tiện quyền xảo, nào là lời vi diệu pháp âm, làm cho người đời đều tỉnh giấc mộng mà quy đầu về Chánh giáo.

    Nay xin lược thuật sự tích lúc Ngài hóa thân làm vị Bố Đại Hòa Thượng ra sau đây cho quý vị độc giả xem.

    Đương thời kỳ nước Lương thuộc về đời Ngũ quí, Ngài ứng tích ở nơi Châu Minh, tại huyện Phụng hóa, thân hình khác hơn người thế tục, trán thì nhăn, bụng thì lớn, và hình vóc mập mạp.

    Lúc đó không ai biết tên họ của Ngài, chỉ thấy Ngài thường mang theo một cái túi vải mà thôi, nên người kêu là: Bố Đại Hòa Thượng.

    Tánh Ngài hay khôi hài và chỗ ăn và nằm ngày đêm không có nhứt định, mà Ngài đi đâu rồi cũng thấy trở về Chùa Nhạc Lâm mà trú ngụ.

    Nụ cười của phật

    Hằng năm,khi các loạt pháo hồng liên hồi nổ, người con Phật bắt đầu lên chùa lễ Phật đầu năm. Giờ phút ấy, trước Điện Phật khói nhang nghi ngút nhưng chúng ta không thể không bắt gặp tượng Đức Phật Di Lặc với nụ cười tươi thắm trên môi. Chúng ta cũng được biết ngày mồng một Tết là ngày Vía của Ngài. Có ý nghĩaa gì về nụ cười và ngày Vía của Phật Di Lặc trong ngày Tết dân tộc?

    Đức Di Lặc được thờ qua ba hình tượng:

    - Tượng Ngài ngồi một mình, áo hở ngực, bụng phệ.

    - Tượng Ngài ngồi như trên nhưng chung quanh Ngài có 6 em bé - tượng trưng cho Lục tặc.

    - Tượng Ngài đứng, tay vác bị lớn, tượng này được gọi là Bố Đại Hòa Thượng (hoá thân của Ngài ở Trung Hoa).

    Di Lặc, tiếng Phạn là Maitrya, theo nghĩa dịch là Từ Thị. Di Lặc là họ, còn chính tên là A Dật Đa (Aadjita), dịch là Vô Năng Thắng. Ngài thuộc dòng dõi Bà La Môn, Nam Thiên Trúc (Ấn Độ).Theo kinh Di Lặc thì Đức Phật Thích Ca thọ ký Ngài là vị Phật tương lai ở cõi Sa Bà này và hội của Ngài là Hội Long Hoa. Cho nên khi lễ Ngài chúng ta thường xưng "Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ Di Lặc Tôn Phật" hay " Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật".

    Ngày đầu một năm thật quan trọng. Tất cả mọi việc làm, cử chỉ phải thật nhẹ nhàng, thận trọng. Từng lời ăn, tiếng nói phải vui vẻ, hòa nhã. Tập quán đó để nói lên lòng ao ước một năm an vui, cát tường. Trong bối cảnh của ngày Xuân như thế, Đức Phật Di Lặc đến với chúng ta với nụ cười vui tươi thì thật đầy ý nghĩa.

    Trước hết, nụ cười của Ngài là bài học quý báu về đức hỷ, xả trong đạo Phật. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc. Có hạnh phúc thì cuộc sống mới có ý nghĩa và thật đáng sống.

    Hỷ tức là vui theo việc làm tốt của người, danh từ Phật học gọi là "Tùy hỷ công đức". Thông thường chúng ta hay có chứng bệnh "trầm kha": Thấy ai hơn mình, như đẹp hơn, giàu hơn, học giỏi hơn..., thì sinh tâm đố kỵ, ghen ghét, không vui. Chính chứng bệnh này đã làm cho nụ cười đầu Xuân héo đi và thay vào đó khuôn mặt ủ rũ chiều thu. Muốn chữa căn bệnh đó chúng ta phải luôn luôn tâm niệm: Thí dụ trong xóm có một người bạn học giỏi hơn thì ta mong có thêm hai, ba, bốn,... bạn học giỏi hơn ta. Như thế thì trình độ dân trí sẽ cao và cuộc sống cũng theo đó mà phát triển. Nếu ngược lại, nghĩa là chúng ta không vui theo, thì chúng ta không những tự hành hạ chúng ta, tự cô lập chúng ta mà vô hình trung chúng ta đã ngăn chận bước tiến của nhân loại. Một lỗi lầm thật to lớn. Nếu hiểu được như thế thì nụ cười tự nhiên vui tươi nở trên môi bạn và đó là mùa Xuân rồi đó. Không cần phải gỡ hết 365 tờ lịch mới là ngày Xuân.

    Xả tức là bỏ, bỏ tất cả những điều phiền muộn do người tạo ra cho ta. Nếu chúng ta không xả được những điều phiền muộn ấy thì cũng như chúng ta không tiêu hóa được cặn bã của thực phẩm trong cơ thể. Do đó chúng ta chỉ cứ than thân trách phận. Suy cho cùng, sở dĩ chúng ta ôm ấp những điều phiền não đó là vì chúng ta từ vô thủy kiếp đến nay cứ chấp có cái TA đáng yêu, cái TA chân thật, thường tồn cho nên nếu ai **ng đến, nói xấu...,thì chúng ta sinh ra buồn rồi ôm mối hận. Hình ảnh Đức Di Lặc với 6 em bé (Lục tặc) cho thấy rằng: Muốn chiến thắng ngoại cảnh, nhứt là nghịch cảnh, chúng ta phải thực hành pháp quán "Chư pháp vô ngã". Khi quán được các pháp đều vô ngã thì ta thấy không có ai gây ra hành động và cũng không có ai thọ lãnh hành động đó cả, cả bản thân của hành động đó cũng chỉ là hư ảo. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:" Người kia lăng mạ tôi, đánh đập tôi, phá hoại tôi và cướp đoạt của tôi. Ai còn ôm ấp tâm niệm ấy thì sự oán giận không thể nào dứt hết". Oán giận không dứt hết thì ngay đến cành mai tronh ngày Xuân cũng úa tàn chứ đừng nói gì đến nụ cười trên môi.

    Chính nhờ nụ cười hỷ xả này mà người phương Tây đã tặng Đức Di Lặc (qua hình ảnh Bố Đại Hòa Thượng) một từ ngữ khiêm tốn, giản dị:" Người Trung Hoa hạnh phúc". Không phải cuộc sống trong đạo, mà ngay ngoài đời, nụ cười giữ một vị trí rất quan trọng, nên ông Fletcher đã nói:" Nụ cười bồi dưỡng kẻ mệt nhọc, là hình ảnh bình minh cho kẻ ngã lòng, là nắng Xuân cho kẻ buồn rầu, và là thuốc mầu nhiệm nhất của tạo hóa để chữa lo âu".

    Ngày mồng một Tết là ngày mà chúng ta hoạch định chương trình cho một năm tới. Lễ Vía Phật Di Lặc trùng với ngày đầu tiên của một chương trình sống 365 ngày là để nhắc nhở chúng ta phải thực hành đức hỷ xả để hướng đến một đời sống an vui, hạnh phúc. Tương lai, chắc chắn chúng ta sẽ được gặp Phật Di Lặc trong Hội Long Hoa. Đó cũng là mùa Xuân mà Đức Phật đã tặng chúng ta trong ngày Xuân, ngày Xuân của bất sanh, bất diệt:

    "Mạc vị Xuân tàn, hoa lạc tận,
    Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"
    (Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết,
    Đêm qua sân trước một nhành mai).
    (Mãn Giác Thiền sư)
     
  3. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Đạt Ma Sư Tổ

    [​IMG]

    năm ngồi nhìn vách đá
    Sư tổ Bồ Đề Đạt Ma, tên thật là Bồ Đề Đa La, con trai thứ ba của vua Nam Thiên Trúc, thuộc dòng Sát Đế Lợi. Về sau Ngài đi tu và gặp Tổ Bát Nhã Đa La, đời thứ 27 của Phật giáo Thiên Trúc. Ngài được truyền Y Bát làm Tổ đời 28. Sau đó vào ngày 21 tháng 7 năm Mậu Tuất (năm 518 sau tây Lịch) Ngài lên thuyền vượt biển sang trung Hoa. Ngài tới Quảng Châu vào ngày 1 tháng 10 năm Đinh Mùi. Vua Lương Võ Đế hay tin liền mời Ngài về Kim Lăng để hội kiến, nhưng vì ý không hợp nhau nên chia tay.. Đạt ma Tổ Sư bứt một cọng lau ném xuống sông, rồi đứng trên đó mà vượt Trường Giang (cước đạp lô điệp quá giang). Năm 1307, ở Tung Sơn Thiếu Lâm Tự có lập một tượng đá, tạc cảnh Ngài đạp cọng lau qua sông. Năm Hiếu Xương thứ ba, đời Bắc Ngụy (527), Ngài Bồ Đề Đạt Ma đến Tung Sơn Tự. Tại đây, Ngài thấy nhiều nhà sư có thể trạng yếu đuối, thường hay ngủ gật trong lúc Ngài thuyết giảng và không chịu nổi với khí lạnh bên ngoài của núi rừng xâm nhập. Vì thế, Ngài quyết định tham thiền để tìm cách giúp đỡ những nhà sư này. Kết quả sau 9 năm diện bích trong động thiếu Thất, Ngài đã đúc kết hết thảy tinh yếu vào trong hai cuốn Dịch Cân Kinh và Tẩy Thủy Kinh, trở thành tỵ tổ của Thiếu Lâm võ công và cũng là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Ngay từ bé ngài đã tỏ ra là một người liễu đạo và được truyền tâm ấn. Ngài du hành sang Trung Hoa ngồi trong động Thiếu Thất, Lương Võ Đế lúc bấy giờ nghe dân chúng đồn có một người tu ngồi thiền định trong núi ba năm cũng có ý mời ngài về kinh. Nhưng khi đến ngài không tiếp, có một vị tiểu tăng tên Huệ Khả nghe thấy vậy liền tìm đến. Ngài Huệ Khả đến cúi đầu xin được nghe pháp, Tổ cũng làm thinh. Ngài Huệ Khả nghĩ:"Xưa kia Đức Phật vì muốn cầu Pháp từ đổ dầu vào thân thiêu cháy để cúng dường cho đến tự chặt thân mình ra làm trăm mảnh mới được đức Phật ban cho pháp. Vậy ta cũng phải cầu pháp như vậy". Liền đi mượn dao đến để chặt cánh tay, cảm kích trước lòng cầu đạo của ngài Huệ Khả. Tổ liền hỏi:
    - Người đến tìm ta có việc gì?
    Ngài Huệ Khả đáp:
    - Con đến cầu pháp an tâm
    Tổ liền nói:
    - Ngươi đem tâm ra đây ta an cho
    Ngay câu này Ngài Huệ Khả tự quán chiếu lại thấy không có tâm nào để an bèn sụp lạy liễu ngộ chân lý.
    Tổ nói: "Ta đã an tâm cho ông rồi"..
    Nên biết ý tổ ở đây là: Tâm không an là tâm xáo động chạy theo ngoại cảnh, chạy theo hình tướng. Giống như mặt hồ, khi phẳng lặng, khi gợn sóng cứ liên tục như vậy, nhưng thể tánh của nước là trong lành, mát mẻ, hay hòa tan mới là thể chất, mà cái thể tính đó nói bằng lời đâu có đúng, do tự mỗi người cảm nhận. Tổ Huệ Khả ngộ ra cái lý này tự thấy sự giả tạo của phiền não, của không tánh rồi.

    Tổ Bát-nhã-đa-la sau khi truyền tâm ấn cho tổ Bồ Đề Đạt Ma biết rằng ngài có duyên với việc hoằng pháp tại Trung Hoa. Tổ hoằng pháp từ năm 470-543 sau Công Nguyên. Sau khi đến, Sư nhận lời mời của Vũ Đế đi Nam Kinh. Cuộc gặp gỡ giữa Bồ-đề-đạt-ma và Vũ Đế được các ngữ lục ghi lại như sau:
    Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây trong nước mình nhiều chùa chiền, bảo tháp. Vũ Đế hỏi nhà sư Ấn Độ: "Trẫm từ lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?"
    Đạt Ma đáp: "Không có công đức."
    - "Tại sao không công đức."
    - "Bởi vì những việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật."
    - "Vậy công đức chân thật là gì?"
    Sư đáp: "Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được."
    Vua lại hỏi: "Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?"
    - "Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh."
    - "Ai đang đối diện với trẫm đây?"
    - "Tôi không biết."
    Ý nghĩa của cuộc đối thoại này như sau: Vua Lương Vũ Đế lấy việc xây chùa (việc hữu hình) hỏi tổ rằng mình làm việc đó có được công đức gì không? Đức Phật dạy làm việc công đức thì muốn việc được thành tựu phải không thấy có người làm công đức, không nghĩ đến lợi được mà làm công đức. Ngay chỗ này, vua Lương đã sai rồi. Làm công đức như vậy chỉ được phước hữu lậu là giàu sang, không bệnh tật v.v… cao nhất là được phước sinh lên trời mà thôi. Công đức chân thật là giác ngộ tự tâm, thành Phật đó mới là công đức vô lậu. Đã giác ngộ được như vậy thì không có giới hạn, không có Phật cũng chẳng có Thánh. Vua không ngộ được ra hỏi thêm: “Ai đối diện với trẫm đây”. Tổ đã giác ngộ không có 4 tướng: ta, người, thọ nhận, chúng sinh nên nói “Tôi không biết”.

    Sư có ý muốn hồi hương(Ấn độ), trước khi về, gọi đệ tử truyền pháp: "Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình".
    Đạo Phó bạch: "Theo chỗ thấy của tôi, muốn thấy đạo phải chẳng chấp văn tự, mà cũng chẳng lìa văn tự." (Văn tự chỉ là một khía cạnh của Phật tánh)
    Sư đáp: "Ông được lớp da của tôi rồi."
    Ni Tổng Trì nói: "Chỗ giải của tôi như cái mừng vui thấy nước Phật (tâm) bất động, thấy được một lần, sau không thấy lại nữa." (Phật tánh vốn không sinh không diệt, sao nói thấy một lần rồi không thấy lại nữa)
    Sư nói: "Bà được phần thịt của tôi rồi."
    Đạo Dục, một đệ tử khác, bạch: "Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải thật có, vậy chỗ thấy của tôi là không một pháp nào khả được." (Không pháp nào có thể được nghe cũng ở lý trung đạo nhưng vẫn chưa phải rốt ráo)
    Sư đáp: "Ông được bộ xương của tôi rồi."
    Cuối cùng, đến phiên Huệ Khả. Huệ Khả lễ bái Sư rồi đứng ngay một chỗ, không bạch không nói gì cả. Sư bảo: "Ngươi đã được phần tuỷ của ta." (Phật tánh không thể dùng văn tự lời nói để diễn tả. Giống như nói ăn ngon, ngon là một cảm giác, tùy thuộc vào vị giác mỗi người, ai ăn người đó biết đâu có diễn tả được ngon là như thế nào?)
    Rồi ngó Huệ Khả, Sư nói tiếp: "Xưa Như Lai trao 'Chánh pháp nhãn tạng' cho Bồ tát Ca Diếp, từ Ca Diếp chánh pháp được liên tục truyền đến ta. Ta nay trao lại cho ngươi; nhà ngươi khá nắm giữ, luôn với áo cà sa để làm vật tin. Mỗi thứ tiêu biểu cho một việc, ngươi nên khá biết."(Tổ Ca Diếp nhận tâm ấn từ Phật Thích Ca, “Liên Hoa Vi Tiếu”, Phật Thích Ca giơ bông sen lên, đại chúng bình luận abc, Tổ Ca Diếp mỉm cười. Phật Thích Ca truyên tâm ấn).
    Huệ Khả bạch: "Thỉnh Sư chỉ bảo cho."
    Sư nói: "Trong, truyền pháp ấn để khế chứng tâm; ngoài, trao cà sa để định tông chỉ. Đời sau, trong cảnh cạnh tranh, nếu có người hỏi ngươi con cái nhà ai, bằng vào đâu mà nói đắc pháp, lấy gì chứng minh, thì ngươi đưa bài kệ của ta và áo cà sa ra làm bằng. Hai trăm năm sau khi ta diệt rồi, việc truyền y dừng lại. Chừng ấy, đâu đâu người hiểu đạo và nói lý rất nhiều, còn người hành đạo và thông lý rất ít, vậy ngươi nên cố xiển dương đạo pháp, đừng khinh nhờn những người chưa ngộ. Bây giờ hãy nghe bài kệ của ta:"
    Ngô bổn lai tự độ
    Truyền pháp độ mê tình
    Nhất hoa khai ngũ diệp
    Kết quả tự nhiên thành
    Ý nghĩa: Ta đến đất này tự chứng ngộ, tự tìm phật tánh nơi mình không có tìm ở ngoài. Truyền pháp để độ cho chúng sinh. Một hoa nở ra năm cánh, năm ngành. Ý nói từ Tổ truyền xuống 5 đời nữa đến Ngũ Tổ là Hoằng Nhẫn truyền cho 2 đệ tử là trong đó có Lục Tổ Tuệ Năng. Còn từ đó trở đi phát tán rộng rãi. Kết quả tự nhiên thành. Phật tánh vốn tự ngộ, tự chứng chứ không phải do bên ngoài.
     
  4. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Bát Tiên

    [​IMG]

    Truyền kỳ về Bát Tiên có lẽ bắt đầu từ triều đại nhà Đường, và câu chuyện cũng thay đổi khác nhau qua với các triều đại. Tám vị tiên, theo ấn bản sau đời nhà Minh, là gồm có Chung Ly Quyền, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quải, Tào Quốc Cữu, Lã Động Tân, Lam Thái Hoà, và Hà Tiên Cô. Rất khác nhau về bề ngoài và cá tính, tám vị này là Đại Tiên trong Đạo gia, và họ thường tụ tập, họp mặt với nhau.

    Tào Quốc Cữu là hoàng tộc của một hoàng đế; Lý Thiết Quải có tật ở chân nên bước đi với một cây gậy; Hà Tiên Cô là một phụ nữ trẻ đẹp; Trương Quả Lão trông rất khỏe mạnh ở tuổi già của mình và thường cưỡi ngược trên lưng lừa. Hàn Tương Tử là cháu trai của Hàn Dũ, một văn nhân nổi tiếng ở triều đại nhà Đường, thường thích thổi sáo; Chung Ly Quyền luôn luôn được nhìn thấy với một tay phe phẩy cái quạt lá.

    Trong suốt các cuộc hành trình của họ, tám vị Tiên này đã gặp đủ loại người trong các tình huống khác nhau, nhiều câu chuyện về những trường hợp trong số đó đã được lưu truyền lại. Một ví dụ có liên quan đến nỗ lực cứu độ con người mà không thành công của Lã Động Tân như sau:

    Lã Động Tân đã có một lần cam kết với Chung Ly Quyền rằng ông ta sẽ cứu độ tất cả chúng sinh. Nhưng ông vẫn chưa cứu được một người nào cả, do đó ông đã làm một chuyến du hành đến vùng Nhạc Dương. Trước kia ông đã tới đó hai lần để cố gắng giúp đỡ người thường. Nhạc Dương bây giờ là một khu vực hành chính thuộc tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc, ở trên bờ hồ Động Đình.

    Lã Động Tân đã tự cải trang thành một ông già bán dầu ăn. Ông xem việc bán dầu như là một dịp để gặp và lựa chọn những người có triển vọng được cứu độ. Nếu một khách hàng có vẻ không tham lam, không đòi dầu ăn nhiều hơn những gì họ đã trả tiền cho, thì ông có thể cứu độ người đó được. Vì vậy, ông đã tiếp tục đi bán dầu trong một số năm, trong thời gian mà ông đã gặp các khách hàng, ngoại trừ một bà già ra, tất cả đều tham lam đòi hỏi quá đáng. Tuy nhiên bà già này, chỉ lấy những gì bà đã trả, và không lấy thêm ngay cả một giọt

    Rất ngạc nhiên, Lã Động Tân nghĩ rằng cuối cùng ông đã tìm thấy một người có thể cứu độ được. Ông hỏi bà ta: “Những người đến mua dầu đều muốn xin thêm, ngoại trừ bà ra. Tại sao bà không làm vậy?” Bà ta trả lời?: “Tôi hài lòng với chỉ một hũ dầu –hơn nữa, cuộc sống của ông cũng không dễ dàng gì với nghề bán dầu ăn. Làm sao tôi có thể lấy nhiều hơn được?” Sau đó, bà ta còn mời Lã Động Tân uống ít rượu để bày tỏ lòng cảm kích của mình.

    Lã Động Tân cảm thấy bà ta là một người có triển vọng tốt và dự định sẽ cứu độ bà. Khi ông biết được rằng có một cái giếng trong vườn của bà, ông đã thả nhiều hạt gạo xuống đó. Ông bảo bà già: “Bà có thể kiếm nhiều tiền bạc bằng cách bán nước trong giếng”. Sau đó, ông bỏ đi. Bà già quay trở lại, nhìn vào giếng thì thấy rằng nước trong giếng đã được biến hóa thành rượu. Theo lời khuyên của Lã Động Tân, bà già đem bán rượu trong giếng và trở nên giàu có trong vòng một năm.

    Một hôm, Lã Động Tân ghé qua chỗ ở của bà. Bà không có ở nhà, chỉ có người con trai của bà ở đó. Lã Động Tân hỏi anh ta: “Công việc bán rượu thế nào rồi?”

    “Công việc bán rượu vẫn tốt, nhưng không có bã rượu, cám gạo để nuôi heo”, người con trai trả lời. Nghe xong những lời này, Lã Động Tân thở dài, thầm nghĩ: “Lòng tham vô đáy của con người đã tới mức độ thương tâm này sao!”. Vì vậy, ông đã lấy lại những hạt gạo trong giếng, rồi bỏ đi.

    Chẳng bao lâu, bà già trở về. Người con trai kể lại cho bà những gì đã xảy ra. Bà ta đi ra xem giếng rượu. Rượu trong giếng đã biến thành nước. Bà già vội vàng chạy ra cửa, nhưng Lã Động Tân đã bỏ đi từ lâu rồi.

    Lã Động Tân rời Nhạc Dương đi đến hồ Động Đình, và để lại một bài thơ than tiếc cho nhân loại: “Ba lần đến Nhạc Dương không người nhận ra, Qua hồ Động Đình ta ngâm một câu thơ”.
     
  5. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Quan Công(Quan Vân Trường)

    [​IMG]



    Quan Vũ người Giải Lương,Hà Đông. Tam Quốc ngoại truyện cho rằng ông là người Bồ châu[1]. Ông cao chín thước, mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt.

    Theo Quan Đế minh thánh kinh, cụ nội Quan Vũ là Quan Long Phùng, ông nội Quan Vũ là Quan Thẩm, tự là Vấn Chi; cha ông là Quan Nghị, tự là Đạo Viễn[2].
    [sửa] Thời trẻ

    Thời trẻ, Quan Vũ làm nghề bán đậu phụ. Tuy nhà nghèo, ông cũng được theo học cả văn lẫn võ[3]. Ông là người vũ dũng, hào hiệp, ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu. Do bênh vực người khác mà ông phạm tội giết người, phải bỏ quê hương đến nương náu ở quận Trác.

    Tại quận Trác, Quan Vũ đã gặp gỡ và trở nên thân thiết với Lưu Bị và Trương Phi. Ba người coi nhau như anh em, thề cùng sống chết có nhau

    Quan Vũ được thờ phụng ở nhiều nơi, tôn lên nhiều danh hiệu cao quý.

    Sau khi mất, ông được truy tặng chức Tráng Mậu hầu. Thời nhà Tống, Tống Huy Tông truy tôn ông là Trung Huệ Công; Tống Cao Tông tôn ông làm Tráng Mậu Vũ An vương. Đến thời Minh Thần Tông, ông được tôn làm Quan Đế. Vua nhà Minh coi ông là vị thần hộ quốc[34].

    Đời Thanh, Càn Long tôn ông làm Trung Nghĩa Vũ Thần đại đế. Năm 1856, người ta cho rằng ông đã hiển linh giúp quân Thanh thắng giặc nên binh lính nhà Thanh thường treo ảnh ông trong doanh trại và đeo tượng ông, coi như bùa hộ mệnh[35]. Cũng vì sự việc này, vua Hàm Phong đã tôn ông lên ngang hàng với Khổng Tử, gọi là Quan Phu Tử. Ông là người thứ hai sau Khổng Tử được tôn xưng là Phu Tử[36].
    [sửa] Tôn thờ

    Tào Tháo được xem là người đầu tiên dựng am thờ Quan Vũ, ngay tại quận Tiêu nước Bái quê mình - am Linh Thố[37].

    Sau đó nhiều nơi ở Trung Quốc đã lập đền thờ Quan Vũ. Do ảnh hưởng từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, hình tượng ông càng trở nên thần thánh trong sự ngưỡng mộ của nhân dân. Năm 1914 thời Trung Hoa Dân Quốc, Quan Vũ được thờ chung với Nhạc Phi tại Võ miếu. Tại huyện Thái Hưng tỉnh Giang Tô, ông được thờ cùng Nhạc Phi và Văn Thiên Tường[38].

    Việc thờ Quan Vũ có ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian. Ông được nhân dân thờ như Thần độ mạng; giới thương nhân coi ông như thần tài; giới nho sĩ coi ông như thần văn học (tượng Quan Vũ trên 1 tay có cầm Kinh Xuân Thu); giới quân sự coi ông như vị thần bảo vệ bản mệnh. Người ta giải thích rằng sở dĩ ông có cả ảnh hưởng tới giới thương nhân vì hồi còn hàn vi ông từng làm nghề bán đậu phụ. Các đao phủ thường giấu đao trong đền thờ ông vì họ cho rằng uy linh của ông sẽ ngăn trở oan hồn về báo oán[39].
    [sửa] Tại Việt Nam

    Việc thờ Quan Vũ ở Việt Nam có từ nhiều thế kỷ, từ Bắc đến Nam. Người Việt Nam thờ ông trong nhiều chùa, thờ chung với Phật.

    Một số nơi thờ Quan Thánh ở Việt Nam[40]:

    * Đền Ngọc Sơn hồ Hoàn Kiếm trước đây từng là nơi thờ Quan Thánh.
    * Đền Quan Công ở bến Tây Luông, cách cổng thành Thăng Long 2 dặm.
    * Miếu Quan Đế do Bỉnh Trung Công thời Hậu Lê xây dựng ở phường Hà Khẩu, nay là phố Nguyễn Trung Trực, Hà Nội.
    * Miếu Quan Thánh ở xã Năng Tịnh, huyện Mỹ Lộc, Nam Định.
    * Đền Quan Đế ở xã Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, Thanh Hóa.
    * Đền Quan Thánh ở phố Bắc Hà, huyện Kim Động, Hưng Yên
    * Miếu Quan Công do người Hoa xây dựng ở huyện Phong Thổ, Lai Châu.
    * Miếu Quan Đế ở xã Nước Hai, huyện Hòa An, Cao Bằng.
    * Đền Quan Công tại cạnh chùa Thiên Mụ ở Huế.
    * Đền Quan Công ở Hội An, Quảng Nam.
    * Miếu Quan Đế (Chùa Ông) của người Hoa, Phan Thiết, Bình Thuận.
    * Đền Quan Công tại huyện Tuy Phong, Bình Thuận
    * Chùa Quan Đế ở Bình Tây, Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh.
    * Đền thờ Quan Thánh tại Thành phố Vũng Tàu.

    Những người theo đạo Hòa Hảo làm lễ Quan Thánh vào ngày 24 tháng 6 âm lịch[41]
    [sửa] Tranh và tượng

    Quan Vũ được dân gian tạc tượng và vẽ tranh rất nhiều, theo mô phỏng sự mô tả của Kinh Minh thánh: mày tằm hình chữ bát, mắt phượng sáng như sao, râu rồng rõ năm chòm, trán hùm thân lẫm liệt[42].

    Thông dụng hơn cả trong tranh, tượng dân gian là hai kiểu: tượng ba ông và tượng năm ông.

    Tượng ba ông gồm có Quan Công mặc giáp phục ngồi giữa hổ trướng, tay vuốt râu, tay kia cầm Kinh Xuân Thu; sau lưng hai bên có Quan Bình đứng bên trái giữ ấn, Châu Thương đứng bên phải giữ thanh long đao.

    Tượng năm ông tương tự như tượng ba ông, nhưng có vẽ thêm Trương Tiên cầm cung và Vương Thiên Quân cầm giản đứng hầu[43].
    [sửa] Câu đối

    Tại những thờ Quan Vũ có rất nhiều câu đối ca ngợi sự nghiệp và đức độ của ông. Những câu đối nổi tiếng nhất về Quan Vũ được ghi nhận là[44]:

    Xích diện bỉnh xích tâm, kỵ Xích thố truy phong, trì khu thời, vô vong Xích đế
    Thanh đăng quang thanh sử, trượng thanh long yển nguyệt, ẩn vi xứ, bất quý thanh thiên

    Dịch nghĩa:

    Mặt đỏ lòng son, cưỡi Xích thố như gió, khi rong ruổi không quên vua Đỏ[45].
    Đèn xanh xem sử xanh, nương thanh long yển nguyệt, chốn ẩn vi chẳng thẹn với trời xanh

    Sinh Bồ châu, sự Dự châu, thủ Từ châu, chiến Kinh châu, vạn cổ thần châu hữu hách
    Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, thích Mạnh Đức, cầm Bàng Đức, thiên thu trí đức vô song

    Dịch nghĩa:

    Sinh Bồ châu, giúp Dự châu[46], giữ Từ châu, chiến Kinh châu, muôn đời hiển hách thần châu[47]
    Anh Huyền Đức, em Dực Đức, thả Mạnh Đức[48], bắt Bàng Đức, ngàn năm đức lớn vô song
     
  6. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Tế Công Hoạt Phật(Tế Điên Hòa Thượng)

    [​IMG]

    Tế Ðiên Hòa thượng là tác phẩm văn học dân gian Trung Quốc, kể lại sự tích một vị Thiền sư thuộc phái Dương Kỳ, tông Lâm Tế, sống vào đời Tống (khoảng 1150 – 1209) tại vùng Chiết Giang, Trung Quốc.

    Cuộc sống của vị Thiền sư này có nhiều điều kỳ bí khác đời và cũng khác với đời sống tu hành của Tăng chúng đương thời. Tính tình ông cuồng phóng, thích rượu, thích thịt, người đời gọi ông là “Tế Ðiên”, nhưng ông lại là người rất “tỉnh”, từ bi và ưa giúp đời.

    Chuyện về cuộc đời của Hòa thượng Tế Ðiên được dân chúng tô đắp thêm nhiều điều kỳ bí, sau được sưu tập, gọt giũa thành tác phẩm văn học “Tế Công Hoạt Phật” hay còn gọi là “Tế Ðiên Hòa thượng”.

    Thỏng tay đi vào chợ,
    Ngang dọc cõi nhân sinh,
    Tâm an nhiên tự tại,
    Buông xã hết nhân tình.

    Thỏng tay đi vào chợ,
    Lòng bừng sáng tuệ tâm,
    Thoát ngoài vòng sinh tử,
    Ngao du chốn phong trần.

    Phương Viên Tẩu - Tế Điên!
    Trên tay cây quạt rách,
    Mũ lệch mắt láo liên,
    Hóa giải mọi ưu phiền.

    Lý Tâm Viễn - Tế Điên!
    Nhập thế để giúp đời,
    Luôn cứu khổn phò nguy,
    Thiện tâm mãi sáng ngời.

    Ba vạn sáu tiêu hoang,
    Lún sâu cõi trần hoàn,
    Tâm ngày càng mê muội,
    Lưu đày giữa nhân gian.

    Hãy lánh xa biển khổ,
    Không vướng lụy thất tình, (4)
    Tâm tìm về bến độ,
    Thoát khỏi vòng tử sinh.

    Thỏng tay đi vào chợ, (5)
    Đói ăn và khát uống,
    Sống theo lẽ đời thường,
    Đó cũng là Sống Thiền!

    Hồ Tấn Minh - Khách Phong Trần

    (1) (2) (3) Tế Công Hoạt Phật hay òn gọi là Tế Điên Hòa Thượng là một vị Thiền Sư Trung Quốc phái Dương Kỳ tông Lâm Tế. Ngài sống vào đời Tống, người xứ Lâm Hải thuộc Triết Giang, tục danh là Lý Tâm Viễn, tự Hồ Ẩn, hiệu là Phương Viên Tẩu.
    (4) Thất tình : 7 thứ tình cảm của con người là : Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc và Dục.
    (5) Thỏng tay vào chợ : Thập Mục Ngưu Đồ của Phật giáo Thiền Tông,bức thứ 10 là Nhập Triền Thùy Thủ ( Buông tay vào chợ)
     
  7. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Lã Vọng Câu Cá(ngư ông Đắc lợi)

    [​IMG]

    Khương Tử Nha là tên chữ của Khương Thượng, là đại tướng quân thống lĩnh quân đội nhà Chu đời Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương. Khương Tử Nha được biết đến như một vị tướng tài vĩ đại và là người góp phần lập lên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc và nhân loại !

    Tương truyền một trong số những câu chuyện nổi tiếng nhất về ông là Sự tích Lã Vọng !

    Tích kể lại rằng:
    Khương Tử Nha, vốn là người phương đông, từng làm nghề giết trâu bò ở kinh đô Triều Ca nhà Thương, lại từng bán rượu trên bến Mạnh Tân, tuổi đã quá 60 mà vẫn nghèo khổ lưu lạc chỉ có một chí khí hơn người. Sau ông ra làm quan cho Trụ Vương, cứu giúp dân lành, cũng cưới vợ ở cái tuổi thất thập cổ lai hy. Nhưng vì vua vô đạo mà Đắc Kỷ có ý hại nên ông lội sông trốn chúa, vợ ông Mã thị cũng từ đó bỏ ông mà đi. Thất thế, Tử Nha ẩn mình nơi Bàn Khê đợi gặp chúa hiền.

    Bàn Khê là một thung lũng hẹp, nằm giữa hai ngọn núi cao của Tần Lĩnh, cũng được gọi là Phàm Cốc. Chung quanh núi non xanh rì, mây bay mù mịt. Một con sông có tên là Phạt Ngư Hà, từ giữa hai ngọn núi uốn lượn chảy qua, tiếng nước róc rách suốt ngày, rồi tiếp tục chảy thẳng đến phía Bắc để hoà vào dòng sông Vị Thủy. Bên cạnh Phạt Ngư Hà có một dòng suối tên gọi Tư Tuyền, nước trong leo lẻo, sóng gợn lăn tăn. Núi non nơi đây rất hùng vĩ, tùng bách mọc xanh um, cảnh trí vô cùng xinh đẹp, trang nhã, lại yên tĩnh rất phù hợp cho hiền sĩ ẩn cư.

    Ngày ngày ông ra ngồi gieo câu sông Vị chờ thời, đói ăn trái cây, khát uống nước suối, vui thì xem kinh luyện phép , buồn thì câu cá giải khuây, cái tên Khương Thái Công hay Lã Vọng ra đời từ đó. Ông hay ngồi câu cá mà không dùng mồi, có người hỏi vì sao thì ông đáp: Ta không dùng lưởi câu cong này để câu cá câu tôm, chỉ dùng lưỡi câu ngay để câu thời câu vận

    Người đời làm thơ khen ông:

    Bỏ trốn Triều Ca lánh thị thường
    Ðưa dân khỏi ải thật thần tiên
    Gieo câu sông Vị chờ qua vận
    Uống nước Bàn Khê đợi gặp duyên
    Võ Kiết ra tay người chỉ ngõ
    Phi Hùng ứng mộng chúa cầu hiền
    Tám mươi mới đặng yên công nghiệp
    Ra giúp nhà Chu sửa mối giềng

    Vào một ngày đẹp trời nọ, Chu Văn Vương đi săn, lên núi thấy Khương Tử Nha ngồi câu cá với một lưỡi câu thẳng. Thấy lạ, Chu Văn Vương mới hỏi: "Ông lão, sao câu cá bằng lưỡi câu thẳng thế thì câu sao được?". Khương Tử Nha mới trả lời: "Lưỡi câu bình thường chỉ câu được cá, lưỡi câu này mới câu được minh chủ." Thấy vậy Chu Văn Vương mới đem những chuyện thế cuộc ra hỏi, quả nhiên Khương Tử Nha trả lời thông suốt cho thấy những kiến giải siêu phàm. Văn Vương phải thốt lên: Trẫm chờ Thái Công đã lâu lắm rồi. Bởi thế Khương Tử Nha mới có hiệu là Thái Công Vọng. Văn Vương dùng lễ mà đối đãi, mời Khương Tử Nha về làm Quân sư.

    Người đời có thơ rằng:

    Kìa là chuông trống nọ đờn ca
    Ấy lễ Văn Vương rước Tử Nha
    Cơ nghiệp nhà Chu gần sửa trị
    Tám trăm năm lẻ thảy âu ca

    Quả nhiên Khương Tử Nha không phụ sự kỳ vọng của Văn Vương, ông hiến cho Văn Vương rất nhiều mưu hoạch. Sử gọi là: "Thiện hạ chia ba, hai phần theo về với Chu, phần lớn là nhờ mưu kế của Thái công". Trong khi cuộc chiến đấu lật đổ chính quyền nhà Thương còn dang dở thì Chu Văn Vương qua đời, Khương Tử Nha tiếp tục phò vua Chu Vũ Vương (là Cơ Phát, con của Cơ Xương lên nối ngôi) đánh tan nhà Thương, lật đổ Trụ Vương, góp phần lập lên triều đại nhà Chu. Khương Tử Nha được phong làm Tướng Quốc. Từ đây thiên hạ thái bình, cơ nghiệp nhà Chu truyền được thêm 800 năm nữa. Khương Thái Công thực công lớn không kể hết, tiếng thơm để lại muôn đời, con cháu ông cũng thay nhau cai trị nước Tề thịnh trị mãi về sau.
     
  8. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Khổng Minh Gia Cát Lượng

    [​IMG]

    Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh, là người đất dương đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào mùa Thu năm Tân Dậu (Tam Quốc), tự Khổng Minh, Gia Cát (諸葛) là một họ kép ít gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".

    Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Ông là người tài giỏi nhất nên người đời sau ví Lưu Bị được rồng trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn).

    Tương truyền ông học giỏi một phần nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng, con gái của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam. Người đời mới có câu thơ:

    Mạc học Khổng Minh trạch phụ
    Chi đắc A Thừa xú nữ

    Theo sách "Khổng Minh Gia Cát Lượng", chữ "Cát" trong họ Gia Cát của ông có nguồn gốc từ việc ông là dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Văn Đế lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và cấp đất Gia làm nơi ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát - ghép chữ "Cát" cũ và đất "Gia"[1].
    [sửa] Sự nghiệp

    Xem thêm: Long Trung đối sách

    Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Đức Tháo bàn việc thiên hạ. Tư Mã Đức Tháo có nói: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng Sồ. Ngoạ Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên." Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.

    Khổng Minh đã giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định hai Xuyen, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán, phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình Mạnh Hoạch.
    Đền thờ Gia Cát Lượng

    Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyến bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến bi thảm Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy.

    Lưu Bị trước khi chết đã uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: "Tài năng của ông cao hơn Tào Phi (con trai Tào Tháo, lúc này là vua nước Ngụy) gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như Lưu Thiện con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ còn như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó". Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ.

    Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Dưới sự cai trị của ông, nước Thục dần dần mạnh lên. Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước, Gia Cát Lượng đã đem quân xuống phía nam để bình định bọn nổi loạn. Gia Cát Lượng ra quan không lâu đã bắt sống được Mạnh Hoạch. Ví dụ nổi tiếng về việc Gia Cát Lượng "chiếm lòng người" chính là việc 7 lần bắt, 7 lần tha Mạnh Hoạch, cho đến khi Mạnh Hoạch thực sự chịu phục.

    Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động 4 lần đánh nhau. Mấy lần xuất quân đều chưa giành được thắng lợi hoàn toàn do Lý Nghiêm trễ nải cấp lương nên giả truyền thánh chỉ, 2 lần khác do Lưu Thiện nghe lời dèm pha mà nửa chừng hạ chiếu lui quân.

    Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Vũ Hầu người đời thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.

    Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc chính trị, quân sự và kinh tế ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn võ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân sư", coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.
    [sửa] Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa
    Tập tin:Gia Cát Lượng.JPG
    Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, 2007
    [sửa] Lưu Bị tam cố thảo lư (Lưu Bị 3 lần đến lều cỏ)

    Lưu Bị sau nhiều năm bôn ba vất vả vẫn không có nổi một mảnh đất cắm rùi phải nương nhở Lưu Biểu tại Kinh Châu. Nhưng ở đó không được bao lâu thì ông bị hai người em vợ của Lưu Biểu là Sái Trung, Sái Mạo li dán. Lưu Biểu sinh nghi nhiều lần định giết. Lưu Bị đành xin ở lại Tân Dã chiêu binh mãi mã chờ đợi thời cơ. Lưu Bị buồn bã đi dạo quanh thành Kinh Châu thì nghe được tiếng hát, lời lẽ bài hát khẳng khái, anh hùng. Ông hỏi ra thì là Nguyên Trực, Nguyên Trực trở thành quân sư cho Lưu Bị. Cùng năm đó, Tào Tháo sau khi tiêu diệt Viên Thiệu ổn định phương Bắc, Tào Tháo sai các tướng Đồng Nhân, Lý Điển, Lý Quán dẫn quân tiến đánh Kinh Châu thực chất là để tiêu diệt lực lượng của Lưu Bị. Nhờ sự giúp đỡ của Nguyên Trực, Lưu Bị đánh bại quân Tào.Lưu Bị nhận ra được sự cần thiết của các mưu sĩ trong việc tạo nghiệp chính điều đó đã thay đổi hoàn toàn chiến cuộc của Lưu Bị sau này. Tào Tháo bực tức muốn lôi kéo nhân tài khỏi Lưu Bị nên ra lệnh cho mẹ Nguyên Trực viết thư triệu về Hứu Đô. Nguyên Trực đau khổ từ giã Lưu Bị trước khi ra đi tiến cử Gia Cát Lượng hiện đang ở tại núi Ngọa Long. Thời đó bậc danh sĩ Kinh Châu lan truyền một câu:" Ngọa Long, Phụng Sồ hai người được một sẽ có thiên hạ!". Lưu Bị liền tới Ngọa Long Cương tham bái nhưng hai lần đầu không gặp mãi đến lần thứ ba mới gặp được nên mới có câu "Lưu Bị tam cố thảo lư". Lưu Bị được Lượng nói kế sách định quốc an bang vô cùng kính phục, muốn mời Gia Cát Lượng xuống núi mưu tính đại sự. Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị thật lòng cầu xin nên ông chấp nhận làm quân sư cho Lưu Bị năm đó Gia Cát Lượng mới có hai mươi bảy tuổi chính thức bước vào vũ đài chính trị.
    [sửa] Trận Đồi Bác Vọng

    Sau khi Gia Cát Lượng làm quân sư cho Lưu Bị đã góp nhiều công sức xây dựng binh mã tại Tân Dã khiến cho tiếng đồn xa xa. Tào Tháo nghe được tin, lo lắng lực lượng của Lưu Bị sẽ lớn mạnh khó lòng tiêu diệt lại nghe có Khổng Minh đa mưu túc chí giúp sức. Có lần Tào Tháo hỏi Nguyên Trực: - "Khổng Minh so với tiên sinh thì thế nào?" Nguyên Trực cười lớn rồi đáp: - "So với Khổng Minh thì tôi chỉ là con đom đóm le lói trong đêm còn Lượng là ánh nhật nguyệt hào quang." Hạ Hầu Đôn tức giận nguyện mang 10 vạn binh mã tiêu diệt Lưu Bị bắt sống Lưu Bị. Tào Tháo đồng ý. Nghe tin Hạ Hầu Đôn kéo tới, Lưu Bị lo lắng, hai anh em Quan, Trương hỏi: - "Sao đại ca không dùng "nước" của mình đi?" Khổng Minh tới nói: - "Chúa công có bao nhiêu can đảm, Lượng tôi có bấy nhiêu kế sách." Lưu Bị nghe xong tin tưởng, liền trao ngọc ấn và kiếm cho Khổng Minh. Khổng Minh cho quân mai phục chuẩn bị mọi thứ để tiêu diệt quân Tào tại Bác Vọng. Ông cho Triệu Tử Long và Lưu Bị dụ địch. Hạ Hầu Đôn gần tới đồi Bác Vọng thì thấy Lưu Bị ra đánh rồi rút lui vào thung lũng, cho rằng dù có mai phục thì cũng chỉ nhiêu đó thôi nên Hạ Hầu Đôn ra lệnh toàn binh tiến vào Bác Vọng. Lại nói Bác Vọng là khu thung lũng eo hẹp hai bên có rừng cây và núi đồi, cả 10 vạn đại quân đuổi theo Lưu Bị chèn ép nhau tiến lên. Hạ Hầu Đôn bắt đầu nghi ngờ thì rừng tên lửa bắn xuống mịt mù, cây cối hai bên đường cháy to, quân Tào hoảng loạn dẫm đạp lên nhau mà chạy, lương thực toàn bộ bị cháy, các tướng sĩ của Lưu Bị quay lại truy sát. Toàn bộ Tào quân bị tiêu diệt, tướng Hạ Hầu Đôn chạy thoát. Lưu Bị chiến thắng hoàn toàn chỉ trong 1 trận, từ đó uy tín của Khổng Minh lại càng được nể trọng. Lưu Bị vẫn thường nói với mọi người "Ta được Khổng Minh như cá được nước " quả thật không sai.
    [sửa] Trận Tân Dã

    Sau khi thất bại ở trận Đồi Bác Vọng, Tào Tháo dẫn đại quân đến Kinh Châu. Lưu Tôn và mẹ là Sái thị dâng Kinh Châu cho Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, đem quân đến Tân Dã truy kích Lưu Bị. Khổng Minh bèn lập kế mai phục quân Tào. Ông sai Quan Vũ dẫn 1000 binh đi mai phục phía bờ sông Bạch Hà, quân lính mỗi người mang sẵn một bao cát đợi khi nghe tiếng ngựa hí thì ngăn nước sông xả nước cho nước cuốn chảy xuống. Ông lại sai Trương Phi mai phục ở Bác Lăng và dặn thấy quân Tào băng qua thì xông ra mà đánh. Cuối cùng ông sai Triệu Vân chia quân ba mặt Ðông, Tây, Nam, chừa phía Bắc cho quân Tào chạy, thấy có hiệu lửa thì xông ra mặt Bắc mà đánh đồng thời lệnh cho quân lính mang đồ dẫn lửa để sẵn trong nhà dân sau khi mọi người đã chạy đến Phàn Thành. Sau đó, quân Tào do Tào Nhân, Tào Hồng, Hứa Chử kéo đến. Hứa Chử dẫn quân vào rừng gặp Lưu Bị, Khổng Minh, định lên bắt nhưng bị gỗ, đá cản lại. Còn Tào Nhân, Tào Hồng thẳng tiến đến thành Tân Dã, thấy cửa thành mở rộng bèn dẫn quân vào thành thì thấy đây chỉ là tòa thành trống. Lúc ấy quân Tào tất cả đều mỏi mệt nên nấu cơm ăn để nghỉ ngơi. Bỗng đêm đó, có tin báo lửa cháy, Tào Nhân đang trấn an quân sĩ thì lại có tin báo lửa cháy khắp cả thành. Tào Nhân thất kinh chạy ra thì thấy cả vùng lửa cháy ngút trời. Quân Tào thi nhau chạy trốn, chết không biết bao nhiêu. Tào Nhân, Tào Hồng đang tìm đường thoát thân thì gặp quân của Triệu Vân ùa ra đánh giết, đang lúc nguy cấp thì quân dọ thám cho hay phía Bắc không có lửa nên quân Tào đổ ùa sang phía Bắc mà chạy. Tào Nhân chạy được một khoảng, kiểm điểm lại binh mã thấy hao hơn phân nửa. Quân Tào chạy một lúc nữa lại có con sông chặn trước mặt, nhưng nước cạn nên quân Tào không lo nữa, dẫn quân qua sông. Quan Vũ phục ở mé trên, thấy quân Tào đã tới, bèn cho quân xả nước xuống, nước chảy xuống như thác vỡ bờ cuốn trôi quân Tào vô số. Tào Nhân, Tào Hồng dẫn tàn binh trốn chạy, bỗng đâu gặp Trương Phi, may nhờ có Hứa Chử đến cứu. Sau đó Lưu Bị, Khổng Minh và các tướng thẳng tới Phàn Thành còn Tào Nhân dẫn đám bại binh về ra mắt Tào Tháo xin chịu tội. Tào Tháo tức giận Khổng Minh lắm, kéo đại binh tới ngay Tân Dã để báo thù, tạo nên trận Trường Bản sau này. Người đời sau có thơ khen trận Tân Dã: " Phong Bá ra oai Tân Dã huyện, Chúc Dung bay xuống Diễm Ma thiên"
    [sửa] Trận Xích Bích và việc đoạt 10 vạn mũi tên của Tào Tháo
    Chân dung Chu Du

    Xem thêm: Trận Xích Bích

    Trong trận Xích Bích, Khổng Minh đến Giang Đông giúp đỡ đại đô đốc của Đông Ngô là Chu Du chống Tào Tháo. Chu Du từ lâu biết Khổng Minh là "thiên hạ kỳ tài", để người như vậy sống về sau sẽ là họa cho Đông Ngô nên muốn tìm cách hại ông. Đầu tiên Chu Du sai Khổng Minh dẫn quân đi cướp trại Tào Tháo nhưng ông đã khéo léo từ chối. Sau đó, Chu Du sai Khổng Minh trong 10 ngày làm 10 vạn mũi tên nhưng cố tình dặn thợ tên làm chậm nhằm hại Khổng Minh. Nhưng Khổng Minh hẹn trong 3 ngày sẽ làm xong. Chu Du mừng quá bảo Khổng Minh viết tờ quân lệnh. Khổng Minh bèn đến tìm Lỗ Túc là mưu sĩ của Đông Ngô mượn hai mươi chiếc thuyền, mỗi chiếc có chừng ba mươi quân sĩ, trên thuyền dùng vải xanh làm màn che xung quanh, lại bó cỏ với rơm cho nhiều. Lỗ Túc nhận lời nhưng không hiểu Khổng Minh làm gì. Chu Du mừng thầm nghĩ phen này Khổng Minh chết chắc. 2 ngày đầu Khổng Minh không làm gì cả. Đến ngày thứ ba, vào đầu canh tư, Khổng Minh bỗng bí mật cho mời Lỗ Túc đến uống rượu rồi lại sai người lấy dây chạc dài, buộc hai mươi chiếc thuyền liền lại với nhau, rồi bảo quân nhắm bờ phía Bắc thẳng tới. Hôm ấy, sương mù rất nhiều. Đến đầu canh năm, Khổng Minh tiến sát đến thủy trại của Tào Tháo, Khổng Minh sai thủy thủ dàn ngang đoàn thuyền ra rồi đánh trống vang trời, hò reo ầm ĩ. Sai Mão và Trương Doãn thấy sương mù dày đặc sợ có phục binh nên hạ lệnh cho quân sĩ bắn tên loạn xạ vào quân Khổng Minh. Đợi đến gần sáng, Khổng Minh dẫn quân trở về, 20 chiếc thuyền cắm đầy tên của quân Tào, tính ra hơn 10 vạn. Chu Du trông thấy vô cùng kinh hãi, tự thấy tài kém Khổng Minh rất nhiều.
    [sửa] Khổng Minh cầu gió Đông giúp Chu Du

    Chu Du chờ hoài không thấy gió đông nên lâm bệnh nặng. Khổng Minh bảo Lỗ Túc có cách chữa bệnh cho Chu Du. Lỗ Túc dẫn Khổng Minh vào gặp Chu Du. Khổng Minh đưa Chu Du 4 câu thơ: "Muốn đánh Tào quân, Phải dùng hỏa công, Mọi sự đều có, Chỉ thiếu gió Ðông." Chu Du thất kinh hỏi cách. Khổng Minh bảo Chu Du hãy truyền xây ngay một đài thất tinh ở chân núi Nam Bình, cao bảy trượng, chia ba tầng, có hai trăm quân cầm cờ , ông sẽ cầu gió Đông luôn ba ngày ba đêm để giúp Chu Du. Lập tức Chu Du sai cất đài như lời Khổng Minh dặn, xong rồi giao cho Khổng Minh hai trăm quân sĩ cầm cờ quay theo các phương hướng. Chính giữa có cái đàn để Khổng Minh lên cầu gió . Ngày Giáp Tí, Khổng Minh tắm gội sạch sẽ, mặc áo đạo sĩ, đi chân không lên đàn, lại dặn Lỗ Túc về giúp Chu Du việc binh. Sau đó Khổng Minh truyền: "Đạo trường trang nghiêm, pháp linh như núi, các tướng sĩ không được rời khỏi quân vị, không được to nhỏ nói chuyện, không được mở miệng nói bậy, không được giật mình ngạc nhiên, không được tâm sanh tạc điểm, ai trái lệnh bị chém". Rồi Khổng Minh lên đàn thắp nhang, làm phép cầu ba lần, vẫn chưa có gió. Đến canh hai, gió Đông nam thổi tới rất mạnh, quân Ngô nhân cơ hội đó châm lửa phóng hỏa đốt sạch chiến thuyền quân Ngụy. Chu Du vừa mừng vừa sợ bèn sai Ðinh Phụng, Từ Thịnh đi ngay tới núi Nam Bình để lấy đầu Khổng Minh nhưng tới nơi thì Khổng Minh đã được Triệu Vân cứu thoát. Thực chất, khi Lưu Bị được Chu Du mời sang Đông Ngô để ám sát nhưng không thành, trước khi về có ghé thăm Khổng Minh. Lúc đó, Gia Cát Lượng đã lượng trước được tình hình nên nhờ Lưu Bị bảo Triệu Vân đưa 1 chiếc thuyền đợi sẵn ở chân núi Nam Bình, sau khi cầu được gió Đông xong sẽ trở về ngay, không được trễ. Việc lập đài cầu gió Đông Nam chẳng qua chỉ là hành động phụ thêm của Không Minh nhằm qua mắt Công Cẩn, tiện thoát thân. Qua đó có thể thấy được sự tinh thông thiên văn, thời tiết...của Gia Cát Lượng. Nhờ "gió Đông nam của Khổng Minh" mà quân Ngô đại thắng quân Ngụy, Chu Du không bị nỗi nhục mất nước, mất vợ nên về sau thi sĩ đời Đường Đỗ Phủ có 2 câu thơ: "Gió Đông nếu chẳng vì Công Cẩn / Đồng Tước đêm xuân khóa Nhị Kiều".
    [sửa] Kinh Châu
    [sửa] Gia Cát Lượng ra Tây Xuyên dùng mẹo bắt Trương Nhiệm

    Sau khi Bàng Thống mất, Lưu Bị mời Khổng Minh ra Tây Xuyên để đánh chiếm Ích Châu. Khổng Minh giao Kinh Châu lại cho Quan Vũ rồi cùng Trương Phi, Triệu Vân vào Tây Xuyên. Khổng Minh muốn chiếm Lạc thành nhưng ngại Trương Nhiệm là người đã giết Bàng Thống nên tìm kế bắt Trương Nhiệm. Ông xem xét địa hình rồi sai Ngụy Diên đem quân phục ở phía đông cầu Kim Nhạn, cầm trường thương phục bên tả hễ địch chạy qua thì cứ nhằm tướng cởi ngựa mà đâm, Hoàng Trung dẫn quân phục phía hữu chỉ dùng đao chém chân ngựa, Trương Nhiệm sẽ chạy qua đường nhỏ phía Ðông. Trương Phi phục sẳn quân nơi đây mà bắt còn Triệu Vân thì chờ Trương Nhiệm chạy qua cầu Kim Nhạn thì chặt gẫy ngay cầu ấy. Phân công xong, Khổng Minh đích thân đi dụ địch. Trương Nhiệm dẫn Trác Ung ra trận, gặp Khổng Minh liền dẫn quân ra đánh, Khổng Minh bỏ xe lên ngựa chạy qua cầu. Trương Nhiệm đuổi theo một quãng thì gặp Huyền Ðức và Nghiêm Nhan đổ ra chặn đánh. Nhiệm toan quay về thì cầu đã bị chặt gẫy. Nhìn bờ phía Bắc thì Triệu Vân chận, liền chạy vào đường nhỏ thì gặp quân phục của Ngụy Diên, Hoàng Trung. Trương Nhiệm chỉ còn vài chục kỵ binh theo sau chạy vội vào đường núi thì Trương Phi hiện ra, quát một tiếng như sấm, Nhiệm luống cuống thì bị các bộ tướng của Phi xông lại bắt sống. Trương Nhiệm bị bắt giải tới gặp Lưu Bị và Khổng Minh nhưng không chịu hàng nên bị Khổng Minh sai đem ra chém. Chiếm được Lạc Thành, Lưu Bị sau chiếm luôn Ích Châu.

    Mạnh Hoạch (孟獲) là một nhà quý tộc, người đứng đầu Nam Man nằm ở Nam Trung, phía nam của Thục Hán, thuộc khu vực ngày nay là Vân Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo Tam Quốc Diễn nghĩa, Mạnh Hoạch đứng đầu các bộ lạc Nam Man và thường xuyên quấy nhiễu và Gia Cát Lượng đã đích thân dẫn quân đến thu phục Mạnh Hoạch. Theo Tam Quốc Diễn nghĩa thì Gia Cát Lượng đã 7 lần bắt được Mạnh Hoạch và tha với mục đích thu phục nhân tâm các bộ lạc khu vực này. Mạnh Hoạch sau đó thề trung thành với Thục Hán. Theo chính sử[cần dẫn nguồn] thì Mạnh Hoạch không phải là người thuộc các bộ lạc Nam Man mà là người Hán.

    Cũng trong tiểu thuyết, Mạnh Hoạch có vợ là Chúc Dung[cần dẫn nguồn], cô tự nhận mình là con cháu của thần lửa
    [sửa] Thu phục Khương Duy
    [sửa] Dùng Không thành kế đuổi Tư Mã Ý

    Gia Cát Lượng về thành thu thập lương thảo. Nhưng chẳng mang theo nhiều quân. Tư Mã Ý đuổi đến nơi, Ông không những không triển khai quân đối phó mà còn mở cổng thành, có ý mời quan quân Tư Mã Ý vào thành. Còn mình thì ngồi trên thành, gẩy đàn rất bình thản. Tư Mã Ý đến nơi, thấy vây liền sinh nghi, không dám tiến vào thành vì sợ trong thành có bẫy. Tư Mã Ý nghe tiếng đàn của Gia Cát Lượng, thấy được sự bình thản trong con người ông, càng thêm lo sợ. Tư Mã Ý còn nói: "hiểu được tiếng đàn của Gia Cát Lượng thật là 1 diễm phúc của ta". Đột nhiên, dây đàn đứt, Gia Cát Lượng vô cùng lo sợ, nhưng Tư Mã Ý thì lại cho là có biến, liền lập tức ra lệnh lui quân. Gia Cát Lượng cũng vã mồ hôi vì lo lắng. Sau đó lập tức ra lệnh cho mọi người chuyển gấp lương thảo về Hán Trung, ông nói Tư Mã Ý nhất định sẽ quay lại. Và quả thật, Tư Mã Ý đã quay lại, lên thành, thấy chỉ còn chiếc đàn đã đứt dây, vừa cảm thấy tức, vừa thêm nể phục tài năng của Gia Cát Lượng.
    [sửa] Gia Cát Lượng vây cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương cốc

    Gia Cát Lượng sau khi nhiều lần tấn công và cố bắt sống Tư Mã Ý nhưng không thành, doanh trại Tư Mã Ý thì được canh phòng nghiêm ngặt không thể đột phá. Cuối cùng Gia Cát Lượng cho vài hàng binh vào trại Tư Mã Ý nói là toàn bộ lương thực của quân Thục đều cất giữ tại Thượng Phương cốc, Tư Mã Ý hơi nghi ngờ cho người dò xét thấy đoàn lương của Thục quân có đi vào Thượng Phương Cốc. Tư Mã Ý cả mừng ra lệnh đích thân thống soái một đạo quân nhỏ tới thượng Phương Cốc còn lại thì để lại giữ doanh trại. Cha con Tư Mã Ý vừa vô sơn cốc thì không thấy bóng người và lương thảo, bao quanh toàn đồi dọc dứng nhỏ hẹp,Tư Mã Ý đang nghi ngờ thì tiếng trống nổi lên, quân Thục ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu. Gia Cát Lượng liền cho quân phóng hỏa định hỏa thiêu cha con Tư Mã Ý. Lửa cháy càng lúc càng to, Tư Mã Ý khóc rên rỉ:"Ba cha con ta bị chết thiêu ở đây rồi!" vừa lúc đó thì xa xa mây giông kéo tới, mưa gió cuồn cuộn nổi lên dập tắt hết ngọn lửa, cha con Tư Mã Ý cả mừng vội vã chạy thoát khỏi Thượng Phương cốc. Gia Cát lượng buồn rầu đứng dưới trời mưa ngửa mặt than trời: "Đúng là người tính không bằng trời tính". Tư Mã Ý trở về thì doanh trại ở Vị Nam đã bị đánh phá phải rút lui cố thủ ở Vị Bắc. Quân Ngụy tuy đại bại nhưng mưu kế không thành, Gia Cát Lượng vì quá đau buồn lại thêm ngày đêm lao lực mà sinh bệnh.
    [sửa] Gia Cát Lượng bệnh mất ở Ngũ Trượng Nguyên và dùng kế giết Ngụy Diên

    Khổng Minh sau khi thất bại trong việc tiêu diệt 2 cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương cốc cộng với thất bại của quân Đông Ngô nên ông lâm trọng bệnh ngất xỉu. Khi ông tỉnh dậy bảo Khương Duy ông không sống được lâu nữa, Khương Duy nghe vậy thất kinh, rồi khuyên ông dùng phép cầu thọ. Khổng Minh bèn bày đủ lễ vật, trên mặt đất thắp bảy ngọn đèn to, dưới thắp bốn mươi chín ngọn đèn nhỏ, phía trong để một cái đèn bổn mạng rồi cầu trời đất cho ông sống thêm 1 kỷ nữa để phục hưng nhà Hán. 7 ngày sau ông thấy ngọn đèn bổn mạng vẫn sáng thì cả mừng bỗng nghe bên ngoài có tiếng la ó thì thấy Ngụy Diên chạy vào báo có binh Ngụy kéo đến, chẳng may Ngụy Diên lật đật làm đổ ngọn đèn chủ tắt đi. Khỗng Minh bèn quăng gươm xuống đất mà than: "sống chết có mạng không sao cầu được". Khương Duy tức giận muốn chém Ngụy Diên nhưng Khổng Minh ngăn lại. Sau đó, Khổng Minh gọi Khương Duy lại truyền thụ 24 thiên binh thư do ông viết ra, dặn dò các tướng cẩn thận, viết di thư cho Hậu chúa Lưu Thiện rồi bày kế cho Dương Nghi khi ông chết đừng phát tang , hãy làm một cái hộp lớn , để ta ngồi trong, lấy bảy hạt gạt bỏ vào miệng ta, dưới chân để một ngọn đèn thật sáng, ba quân không được khóc lóc thì tướng tinh của ông sẽ không rớt làm cho Tư Mã Ý sẽ nghi sợ rồi cho hậu quân lui trước rồi cứ từng dinh mà rút dần. Nếu Tư Mã Ý dẫn quân đến thì đẩy xe có tượng gỗ của ông ra thì Tư Mã Ý thấy vậy tất sợ mà chạy. Lát sau, thượng thư Lý Phúc vào hỏi chuyện triều đình, Khổng Minh dặn dò nữa chừng thì qua đời, hưởng thọ 54 tuổi, bấy giờ là năm Kiến Hưng 12 ( 234).

    Sau khi Khổng Minh mất, Ngụy Diên quả nhiên làm phản nhưng Khổng Minh đã tiên đoán trước nên bày kế cho Mã Đại chém chết Ngụy Diên. Quân Thục trở về Thành Đô, Hậu chúa Lưu Thiện cho mai táng Khổng Minh tại núi Ðịnh Quân như ý nguyện của ông rồi phong hàm ân cho Khổng Minh làm Trung Vũ Hầu, lập miếu nơi Miêu Dương. Con trai Khổng Minh là Gia Cát Chiêm thủ hiếu cư tang.
     
  9. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Tô Vũ Ông Chăn Dê

    [​IMG]

    Đời nhà Hán bên Trung Quốc có bọn Hung Nô ở phương Bắc hay quấy nhiễu, dòm ngó, tỏ ra hung dữ đối với dân lành Trung Nguyên. Hán tuy là nước lớn nhưng muốn cầu hòa, nên vua Hán Vũ sai một tôi trung là Tô Vũ, cũng gọi là Tô Tử Khanh, người đất Đỗ Lăng đi sứ sang Hung Nô.

    Tôi nhà Hán có hai kẻ bất trung là Lý Lăng và Vệ Luật đã sang đầu Hung Nô từ trước. Chúa Hung Nô là Thuyền Vu bèn sai hai tên này đến gặp Tô Vũ để dụ hàng cho thêm vây cánh. Tô Vũ cự tuyệt và tỏ ra rất đỗi khinh bỉ bọn Lý Lăng, Vệ Luật. Thuyền Vu nổi giận truyền bắt Tô Vũ bỏ vô hang, ba ngày không cho ăn để cho chết. Tô Vũ hớp những giọt sương đêm trên ngù cờ cho thấm giọng, nhờ thế mà không chết.

    Thấy lạ, chúa Hung Nô kinh sợ, cho Tô Vũ là thần nhân, không dám hại nữa mà đày đến đất Bắc chăn dê, giao hạn cho tới khi nào dê đực đẻ ra dê con mới hết tội đày.

    Đất Bắc chỉ có giá lạnh, cầm thú, hoang vu, không có người. Tô Vũ ở nơi đi đày, ngày đi chăn dê, tối ngủ hang đá, thiếu thốn, cực khổ và tuyệt vọng. Gặp mùa chim nhạn thiên di về phương Nam, Tô Vũ nảy ra sáng kiến viết một lá thư nhờ chim nhạn mang về nhà cho đỡ nỗi nhớ nhung.

    Trong một chuyến đi săn, Hán Vũ đế bắn rơi một con chim nhạn bị thương và được lá thư kỳ lạ đó buộc nơi chân con chim. Đọc thư, vua Hán mới biết Tô Vũ đi sứ Hung Nô, rồi bị đày ở đất Bắc, chịu đựng không biết bao cảnh khổ, thật đáng thương.

    Vì thói hung ác của Hung Nô, cho nên Hán Vũ đế không thể cầu hòa với chúng được nữa mà đã tiến quân đánh trừng trị. Chúng Hung Nô bị thua, qui phục và chịu trao trả lại Tô Vũ cho vua Hán. Tô Vũ được trở về cố quốc sau 19 năm lưu đày.

    Ở nơi đi đày, Tô Vũ chỉ còn biết làm bạn với cỏ cây, cầm thú và đã kết bạn tình với một nàng vượn người. Mặc dù cuộc sống của “họ” là hoang dã nhưng họ luôn âu yếm nhau và đã có với nhau một đứa con.

    Cuộc chia tay giữa đôi bạn tình Tô Vũ - nàng vượn người, cũng có thể nói đôi vợ chồng, thật sâu nặng ân tình. Tô Vũ thì hồi tưởng lại những ngày đói rét trong hang đá được vợ chăm sóc, ấp yêu. Nàng vượn người thì lòng đau như cắt nghĩ đến cảnh quạnh hiu cô lẻ cùng con thơ dại không cha trong những ngày sắp tới. Tô Vũ và nàng vượn người bịn rịn, lưu luyến tưởng không thể nào rời nhau được. Tuy chẳng “tử biệt” nhưng họ không thể hẹn nhau ngày gặp lại.

    Thấu hiểu tâm trạng Tô Vũ và thương cảm cuộc chia ly này, nữ sĩ Ngô Chi Lan, đời Lê Thánh Tông, đã cảm tác bài thơ “Tô Vũ giã vợ” thay lời Tô Vũ, có đoạn chan chứa tình:

    “Ngập ngừng bưng chén ly bôi
    Nghĩ mình muôn dặm thương
    người năm canh
    Nhớ duyên kỳ ngộ ba sinh
    Trăm năm xin gởi chút tình lại đây”.

    Đáp lại bài thơ của Ngô Chi Lan, có nhà thơ vô danh có bài “Vợ tiễn đưa Tô Vũ” thay lời nàng vượn người, có đoạn rất nghẹn ngào:

    “Lá lay con Tạo cơ cầu
    Sóng tình chưa lấp thành sầu đã xây
    Đưa chàng một chén từ đây
    Nhạn về ải Hớn loan bay dặm Hồ”

    Tình yêu thương của nàng vượn người dành cho Tô Vũ còn sâu nặng hơn nữa khi nàng quyết định đưa đứa con duy nhất về Nam để được cha con sum họp.

    Chuyện Tô Vũ chăn dê là một chuyện ly kỳ ở cuộc đời đi đày, chăn dê và lấy vợ vượn người của Tô Vũ. Bài học nhân văn ở đây thật đau đớn, đáng cho chúng ta phải suy nghĩ. Tô Vũ là người có học thức, có lòng yêu nước thương dân nhưng ông đã không sống được với người, phải làm bạn, phải sống với cầm thú. Cầm thú biết yêu thương, cứu vớt, dụng nạp con người khi con người gặp khó khăn, hoạn nạn. Tại sao con người lại để cho mình mất tính người, mất cái “tính bản thiện” đi? Con người ở thời đại ngày nay vẫn thế, không khác gì. Bởi vì các nhà cầm quyền, các thế lực trên thế giới vẫn gây chiến tranh, tệ nạn buôn bán ma túy, tham nhũng, bạo lực vẫn lan tràn, cái ác được nuông chiều, cái thiện bị loại trừ, hố ngăn cách giàu nghèo mỗi ngày thêm sâu, người dân lương thiện vẫn khổ hết đời nọ sang đời kia. Giả sử, ngày nay con người “ngộ” được chân lý, biết quay về với cái gốc làm lành, lánh dữ của mình (tính bản thiện) mà từ bỏ hết mọi tham vọng đen tối để cùng chăm lo kiến tạo một thế giới hòa bình, công bằng, bao dung, bác ái thì tốt đẹp biết dường nào, may cho nhân loại biết chừng nào?
     
  10. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Cóc Thiềm Thừ

    [​IMG]

    Cóc 3 châm - Thiềm thừ



    không phải là con cóc bình thường, nó có 3 chân, không giống với những con cóc bình thường có 4 chân, nó có thể nhả ra tiền.

    Thiềm thừ là con vật huyền thoại cóc vàng có 3 chân,nó là biểu tượng của Thần Tài,của sự may mắn về kinh doanh và tiền bạc.Thiềm Thừ chuyên dùng trong Phong Thuỷ ở những khu vực tốt để tăng cường tài lộc,nó tượng trưng cho sự hoạnh phát tài lộc,giảm thiểu rủi ro,nó còn mang ý nghĩa bình an và hạnh phúc cho mọi người.Nên có thể dùng để biến hung thành cát trong Phong Thuỷ.

    Trong phong thủy, cóc là sinh vật được cho là mang lại điềm lành. Người Trung Quốc xưa tin rằng, nếu họ nhà cóc ở dưới giếng, ao, hồ sau nhà bạn, thì gia đình bạn có thể tránh khỏi những nguy hiểm rình rập.

    Cóc 3 chân được xem là biểu tượng rất may mắn. Nó thường ngậm đồng tiền xu trong miệng, tượng trưng cho việc cóc mang vàng vào nhà. Tuy nhiên, đừng để cóc đối diện với cửa chính,cửa sổ.Nếu không cóc 3 chân sẽ nhã tiền ra ngoài hết.
    Vị trí tốt nhất để đặt cóc 3 chân là ở góc đối diện chéo với cửa chính, mặt hướng vào bên trong như thể cóc đang nhảy vào nhà. Cóc cũng có thể nằm bên dưới gầm bàn, bên trong tủ hoặc giấu dưới ghế, những đồ đạc khác…

    Đây sẽ là mốn quà ý nghĩa để tặng người thân hoặc các đối tác, với mong muốn và lời chúc cho họ thành công, phát tài phát lộc. Và mọi người nên có cóc 3 chân ở trong nhà .
     
  11. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Tam Đa(Phước Lộc Thọ)

    [​IMG]

    Tam Đa là 3 ông tiên Phúc Tinh, Lộc Tinh và Thọ Tinh tiêu biểu cho 3 hạnh phúc lớn nhất đời người. Đó là Phúc tức là con cháu đầy nhà vì vậy ông Phúc bế 1 cháu bé trên tay. Lộc tức là công danh tài lộc và Thọ tức là sống lâu trăm tuổi.

    Hiện nay, hình ảnh ba ông tam đa đã rất đỗi quen thuộc với mọi gia đình Việt và Trung Hoa nói chung. Ba ông đại diện cho sự ấm no hạnh phúc, sung túc thịnh vượng.

    Trước tiên là ông Đa Lộc oai vệ, bụng to, cân đai xệ xuống, mũ cánh chuồn, râu ba chòm đĩnh đạc. Ông là Đậu tử Quân, làm quan đời nhà Tấn, đương nhiên luôn xoay sở để có nhiều tiền của, bổng lộc. Giàu có, hiềm nỗi cho đến khi ông ngoài 80 vẫn chẳng có đích tôn nối dõi, khi chết của cải lại chuyển về tay dòng họ khác.

    Ông Đa Thọ là Đông Phương Sóc, làm quan đời Hán, giỏi tâng bốc nên rất được lòng Thiên tử. Gặt hái nhiều bổng lộc, ông cưới nhiều gái đẹp làm vợ nên râu tóc bạc phơ, lưng còng, người lùn đi. Khi ông qua đời, thọ 125 tuổi, con đã chết, cháu tứ đại phải làm ma.



    Ông Đa Phúc tay bế đứa trẻ, tên là Quách Nghi, làm quan đời nhà Đường. Ông thanh liêm, nhà nghèo túng, thanh bạch, vợ chồng chuyên làm việc thiện và tu nhân tích đức. Ngoài 80 tuổi có cháu ngũ đại đồng đường, kỷ cương đạo lý không hề thương tổn, ông bà hạnh phúc đến cuối đời rồi cùng viên tịch.
    Bộ TAM ĐA được bày ở phòng khách là biểu tượng viên mãn lạc thú( hạnh phúc- con cháu đầy đàn- tiên bạc dư dả) của người chủ gia đình.
     
  12. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Tỳ Hưu


    [​IMG]

    Trong các vật khí phong thủy ấy có con Tỳ Hưu.Theo kinh nghiệm hàng ngàn năm của các đại sư phong thủy Trung quốc,Tỳ Hưu là một loại mãnh thú hung mãnh,nhưng lại là một loại mãnh thú mang ý nghĩa tốt lành.


    Vật liệu tạo hình con Tỳ Hưu này rất nhiều : Làm bằng gỗ, làm bằng đá, làm bằng ngọc, làm bằng sứ, làm bằng đồng…Về hình dáng Tỳ Hưu hiện đang lưu hành từ trước đến nay, vẫn là loại Tỳ Hưu trên đầu có một cái sừng, có bờm, có một số con có hai cánh, lông đuôi có tua. Tỳ Hưu còn có tên gọi khác là Thiên Lộc.
    . Về tác dụng của Tỳ Hưu trong phong thủy thì có nhiều tác dụng :

    1.Về màu sắc : Tỳ Hưu màu đen thì có tác dụng chiêu tài, phát lộc. Tỳ Hưu màu trắng thì có tác dụng bảo trợ sức khỏe. Tỳ Hưu màu xanh thì có tác dụng may mắn trong công danh.

    2.Ngoài các tác dụng cá biệt như trên, Tỳ Hưu còn có tác dụng trấn nhà để tránh tà khí, ta đặt Tỳ Hưu đã được “khai quang” ở các hướng tốt trong nhà như : Sanh khí, Thiên y, Diên niên, Phục vị. Nhất là hướng “sanh khí”, thì Tỳ Hưu có thể làm cho vận mệnh các thành viên trong gia đình chuyển biến tốt, vận mệnh tốt được nâng cao, đuổi tà khí đi và có tác dụng trấn nhà, vì vậy Tỳ Hưu đã trở thành thần bảo vệ cho gia đình, bảo vệ sự bình yên cho ngôi nhà của ta.

    3.Tỳ Hưu còn có tác dụng mang lại điều tốt lành : Như nhiều tài lộc, nhất là ở các sòng bạc tại TQ ta đều thấy họ chưng Tỳ Hưu, nhưng được bảo vệ rất kỹ, vì sợ mất trộm, sẽ gây ra nhiều điều xúi quẩy cho họ.Tỳ hưu ngoài việc có tác dụng chiêu tài lộc không liêm chính như trên, Tỳ Hưu cũng còn có tác dụng chiêu tài lộc liêm chính, nên những người kinh doanh cũng đặt Tỳ Hưu ở nhà và ở công ty…

    Tỳ Hưu khi đặt, đầu Tỳ Hưu phải hướng ra cửa chính,hoặc hướng ra cửa sổ để chiêu tài khí bốn phương.Tất nhiên khi đặt bất cứ vật khí phong thũy nào, điều cần phải nhớ là: Xem ngày giờ tốt để đặt.

    4.Tỳ Hưu còn có tác dụng hóa giãi “Ngũ hoàng đại sát”. Ngũ hoàng đại sát là một sát tinh trong phong thũy,khi nó vào nhà thì tác dụng của nó thật vô cùng đáng sợ : Mang đến những điều bất lợi cho những thành viên trong gia đình về sức khỏe và tài vận.

    Nếu ở phương vị ngũ hoàng đại sát bay đến, ta đặt hai con Tỳ Hưu phía sau cửa chính, đầu Tỳ Hưu hướng về phía trước, thì có thể hóa giãi sát khí của ngũ hoàng đại sát
     
  13. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Vì sao thờ Thần Tài

    [​IMG]

    Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai.

    1. Người Hoa là cộng đồng được coi là sở trường về doanh thương nên tập tục thờ thần Tài đã trở nên quan yếu và phổ biến có phần lâu đời trong lịch sử tín ngưỡng. Ngược lại, người Việt là cư dân “dĩ nông vi bản” nên bảo thủ tập tục thờ thần Đất và tín lý phồn thực. Đến cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, thần Đất và thần Tài ở xứ ta vẫn chưa khu biệt rõ. Trong Đại Nam quốc âm tự vị (Sài Gòn, 1895), tác giả Huỳnh Tịnh Của cắt nghĩa Thổ thần và Tài thần đều là “thần Đất, thần giữ tiền bạc” (Tome II, tr. 336) và đến tận bây giờ, thần Tài và Thổ Địa vẫn cứ được thờ chung như một cặp đôi bất khả phân li ở khắp nơi, từ văn phòng công ty, tiệm quán, tư gia… thậm chí ở trên nóc tủ bán thuốc lá lẻ lề đường. Và điều đáng chú ý là, hình tượng vị thần Tài của người Việt, xét về mặt đồ tượng học, là một biến thể của Thổ Địa Phước đức chính thần của người Hoa. Đây là bằng chứng chỉ ra một cách thức ảnh hưởng tín ngưỡng Hoa đối với người Việt

    2. Trong thực tế, đối với người Hoa, Thổ Địa cũng là một trong các thần Tài. Nói cách khác, cũng do nông nghiệp chiếm vai trò quan trọng trong lịch sử nên đất đai cùng các loại nông phẩm từ đất sinh ra là thứ của cải, tài sản chủ yếu nên thần Đất cũng là thần Tài. Mặt khác, thần Đất có công năng là thần Tài là do thuyết ngũ hành tương sinh: Thổ sinh kim.
    Điều cần lưu ý là tín lý về thần Đất của người Hoa rất đa dạng, thậm chí là phức tạp, bởi chúng được quy chiếu theo những lý sự đa tạp khác nhau. Ở đây không trình bày tường tận dài dòng được. Đại thể, ở đây, vị thần Đất chủ quản cả vùng Chợ Lớn (Sài Gòn phố thị xưa) được thờ ở Nhị phủ hội quán (tục gọi là “chùa Ông Bổn”). Theo bài vị thờ tên gọi chính thức của thần là “Nhị phủ miếu Đại Bá Công”, được đồng nhất với ông Bổn (Bổn Đầu công Châu Đạt Quan). Trên bức hoành treo trước chính điện Nhị phủ miếu ghi rằng “Ngô Thổ Địa dã” (Ta là Thổ Địa đây) và công năng chính của thần là bảo trở việc tài lộc. Điều này cho thấy đây là vị thần Tài, thần Đất và nhân thần; song thực chất đây là vị thần thuộc “ngũ thổ”: thần Thổ Phủ, bảo hộ kho chứa hàng hóa, hiểu rộng là chợ búa và hiểu rộng hơn là vùng Chợ Lớn/Bazar Chinois. Ở các xóm người Hoa cư trú tập trung (khu phố, con hẻm, đường phố…) có miếu thờ Thổ Địa Phước đức chính thần. Đồng thời ở các cơ sở thờ tự cũng thờ Thổ Địa Phước đức chính thần bảo hộ cho đền, miếu bên cạnh môn quan. Tại tư gia, vị thần Đất bản gia (được thờ ngay trước cửa, bệ thờ giản dị, đặt sát nền hiên) được định danh là Môn khẩu Thổ Địa tiếp dẫn Tài thần. Vậy là công năng vị thần Thổ Địa này là tiếp dẫn tài lộc cho chủ nhà.
    Chức năng kép của thần Đất được biểu thị rõ ở câu đối sau đây:

    Thổ sinh nhất kim, ngũ hành chúng trân quý
    Địa trưởng vạn vật, tứ quý ca bình vinh.

    3. Ngoài thần Đất được thờ tự để cầu tài, người Hoa còn thờ nhiều thần Tài khác.
    Phổ biến và tôn quý nhất là thần Tài “Tài Bạch tinh quân”, “tinh quân” là ngôi sao trên thượng giới. Đây là vị thần thường thờ tự tôn kính ở các đền miếu, đặc biệt phổ biến là các cơ sở thờ tự thuộc nhóm phương tộc Triều Châu. Tài Bạch tinh quân gồm 5 vị thần, chủ bộ Tài lộc thiên giới, do Kim long Như ý chánh nhốt Long hổ Huyền đàn chân quân (tức Triệu Nguyên soái/Triệu Công Minh) đứng đầu và 4 phụ tá: Chiêu Bảo thiên tôn, Nạp Trân thiên tôn, Chiêu Tài sứ giả, Lợi Thị tiên quân.

    Trên trời có Tài Bạch tinh quân, dưới đất cũng có thần Tài âm phủ. Hình tướng vị thần Tài này giống một phán quan, đen thui, trên đầu đội mũ ống cao, có dòng chữ “Nhất kiến phát tài”. Vị thần Tài này đầu tiên thờ ở Điện Ngọc Hoàng và gần đây mới có mặt ở một số chùa Hoa khác. Tục truyền, trước đây, người ta đến cầu xin giải hạn: lấy vải thô trắng quấn quanh tượng và thi thoảng các tay cờ bạc mới đến cầu tài. Nay thì, vị thần Tài âm phủ này được nhiều người cầu cúng, vay tiền thiêng để đem về mua may bán đắt.
    Kế đó là thần Tài Lưu Hải. Hình tướng vị thần Tài này thấy ở trên cột trước Tam sơn hội quán và trên bờ nóc Điện Ngọc Hoàng: một chàng trai trẻ, tay cầm một sợi dây ngũ sắc buộc một con cóc ba chân hay mang trên vai một sợi dây buộc những quả trứng với các đồng tiền vàng. Theo truyền thuyết Trung Quốc, Lưu Hải là tể tướng dưới triều Lương Thái Tổ (907 – 926). Ông từ quan ở ẩn, được Lữ Đồng Tân (một trong Bát tiên) truyền bí pháp luyện quặng vàng thành linh đơn trường sinh bất tử. Truyền thuyết khác lại kể rằng, Lưu Hải là con trai một lái buôn người Phước Kiến. Ông đã câu được con cóc ba chân ở một cái giếng cạn, biểu thị cho việc phát tài (cóc có âm là “thiềm”, đồng âm với “tiền”). Giới thương buôn thường thờ Lưu Hải, dán tranh vẽ trên hai cánh cửa tiệm, quán để cầu tài. Trong những năm gần đây, tượng cóc ba chân và miệng ngậm tiền được tạo hình độc lập (không gắn với Lưu Hải) được bày bán rộng rãi. Người ta mua về chưng ở nơi thờ thần Tài – Thổ Địa hay nơi trang trọng trong nhà để biểu thị cho việc cầu tài lộc.
    Phổ biến không kém Lưu Hải là cặp nữ thần Tài Hòa Hợp nhị tiên. Hình tướng thường thấy của cặp thần Tài này là cô gái: một hài âm cầm bó hoa sen (sen: hà, hài âm “hòa”) hay bó lúa (lúa: hòa); và một bưng cái hộp (hài âm “hợp”). Cặp nữ Tài thần này là đề tài của điêu khắc gốm, chạm gỗ phổ biến của ngành công nghệ miếu vũ của người Hoa. Thần tích là một truyền thuyết kể về hai chị em Hòa và Hợp buôn may bán đắt. Họ buôn món hàng gì cũng đắc lợi, kể cả những việc cố ý phá bỏ cũng phát tài. Ở Trung Quốc, Hòa Hợp nhị tiên là đối tượng sùng bái của những người sản xuất đồ gốm sứ, thợ nung vôi và người bán quạt.
    Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai. Sau khi đã toại chí, Phạm Lãi không màng công danh phú quý nên bỏ đi ở ẩn. Dã sử kể rằng Phạm Lãi với người đẹp Tây Thi bỏ trốn đi dạo chơi ở Ngũ Hồ. Sau khi bỏ đi, Phạm Lãi trở thành một nhà thương buôn thành đạt và giàu có nổi tiếng ở thôn Đào (?) nên được người đời gọi là Đào Công. Phạm Lãi được tôn là Tài thần. Trong dịp khai trương tiệm quán, cơ sở kinh doanh, người Trung Quốc và người Hoa hay tặng nhau tấm đại tự “Đào Công phất nghiệp” để chúc nhau việc kinh doanh, buôn bán thành đạt.
     
  14. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Còn rất Nhiều bài Viết về vô số tranh tượng.post trước 1 ít cho anh em nghiêng cứu trước nhé.mong các anh em được hiểu thêm về thuật phong thủy trong nghệ thuật.Chúc các bạn vui vẻ
     
  15. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Cho các bạn vào từ từ ngâm cứu cái mình cần quan tâm nè.và nếu ko có cái bạn muốn thì pm mình trả lời và up lên cho nhé.thanks các bạn nhiều
     
  16. Em_Nhớ_anh

    Em_Nhớ_anh New Member

    Tham gia ngày:
    28/3/10
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    cái nào cũng hay cũng ý nghĩa cả nhưng đọc 1 lần thì ko nổi rồi.để mỗi ngày đọc 1 ít.hjhj.hay lắm.nghệ thuật cũng thú vị ghê nhỉ.up cho mọi người cùng đọc.còn nữa ko anh.up tiếp đi.hjhj
     
  17. MrNo1

    MrNo1 Member

    Tham gia ngày:
    3/5/10
    Bài viết:
    208
    Đã được thích:
    3
    Điểm thành tích:
    18
    hay ! nhưng mình chưa có nhà để trưng bày .
     
  18. yếu đuối_dại khờ

    yếu đuối_dại khờ New Member

    Tham gia ngày:
    29/3/10
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    em nghĩ nên có 1 nơi nào đó hợp lý hơn cho bài viết này.chứ đây là ảnh tổng hợp mà.dù sao củng thanks chủ thớt vì bài viết rất bổ ích.à anh có bộ ảnh của 18 vị la hán ko.up lên xem đi anh.và tích của họ nữa.thanks anh
     
    Chỉnh sửa cuối: 29/5/10
  19. Spam chúa

    Spam chúa New Member

    Tham gia ngày:
    29/4/10
    Bài viết:
    67
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    trùi ui toàn bí kiếp vỏ đang ko ah.nhiều bí kiếp quá phải đọc từng cái 1 mới được dóc lần tẩu hỏa chết à.:insane::insane::nhaovo:
     
  20. huycuong

    huycuong Nghệ sỹ NTC

    Tham gia ngày:
    1/3/10
    Bài viết:
    2,834
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    cửu phẩm liên hoa

    [​IMG]

    Tòa nhà Cửu phẩm liên hoa cao khoảng 7 mét, với 12 mái cong, chồng diêm 3 tầng, các hàng cột giữa cao to nâng các tầng trên, cùng với kiểu thức vì kèo chồng giường tạo nên sự vững chắc, thoáng đãng mà nhẹ nhàng. Trong nhà là tòa Cửu phẩm liên hoa cao chín tầng, với 32 bức chạm khắc tỉ mỹ và công phu về nghệ thuật và hàm ý đạo giáo, thể hiện ý nghĩa mỗi tầng là một cảnh giới siêu thóat. Tín chủ mỗi lần xoay tháp tụng niệm danh Phật thì vãng sanh tịnh độ, mà được siêu sinh lên thế giới cực lạc, thế giới Di lặc, cõi vô sinh vô tử siêu thoát Niết bàn. Trong tổng thể kiến trúc, tòa Cửu phẩm liên hoa mang một vẻ đẹp tượng trưng bởi sự dung hòa các tông giáo, kết hợp Tông giáo Tịnh độ trong việc thờ Di Lặc, tôn giáo Thiền tông và Tông giáo Mật tông trong thể nghiệm ý tưởng mà ý nghĩa của nó hiện trên các bức ván chạm trổ.

    Như trên đã nói tòa Cửu phẩm liên hoa được dựng từ thời Trần bởi thiền sư Huyền Quang, nhưng chứng liệu chỉ là dựa trên một cuốn sách ghi chép vào thời Nguyễn. Nhưng căn cứ theo văn bia tại tháp Tôn Đức phía sau chùa tạo năm 1739 thì chùa được Thiền sư Tính Hài "hưng công tu sửa trang hoàng, tô dựng tượng vàng", đồng thời "việc dựng các tòa điện Phật cùng tòa Cửu phẩm liên hoa đã hoàn thành viên mãn", với sự trợ duyên của Thái Tôn Thái Phi Trương Thị Ngọc Chử hiệu là Diệu Khoan và con gái là Phương Hoa Thân Trưởng Thượng Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ hiệu là Diệu Huy cùng Tỳ Khưu ni là Diệu Viên và các tín thí cúng dàng công đức
    Trong hệ thống điêu khắc và kiến trúc chùa tháp Việt Nam, CPLH là một dạng tháp hết sức đặc biệt. Tháp nội tiếp trong một nhà phẩm thông 3 tầng, mỗi tầng 4 mái. Chúng được thiết kế dạng hình lục lăng hoặc hình bát giác với chín tầng hoa sen, trên một cái trục được nối từ đất đến trần của tòa nhà. ở các đỉnh của đa giác này thường được thiết kế những trụ chống đỡ, khiến cho toàn bộ tòa tháp có thể quay một cách dễ dàng. Chúng được chia làm hai loại, loại mô tả ở trên thường bằng gỗ, còn một loại khác bằng gạch đá, thì không quay. Các dạng tháp quay này được đoán định ra đời sớm nhất vào cuối thời Trần, và muộn nhất là thời Lê, cùng với sự thịnh hành của pháp môn Tịnh Độ, cho dù yếu tố Tịnh Độ đã được biết đến từ thời Lý với tín ngưỡng thờ Adiđà. Tuy nhiên các tháp CPLH tồn tại cho đến ngày nay cũng chỉ còn lại có ba ngôi. Đây cũng là ba ngôi tháp đẹp nhất, có niên đại nằm gọn trong thế kỷ XVII khi tình hình tôn giáo cũng như xã hội có rất nhiều biến động. Đó là các Cửu Phẩm Liên Hoa chùa Đồng Ngọ, chùa Giám (Hải Dương) và chùa Bút Tháp (Bắc Ninh).
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/1/11